» Mở tất cả ra       » Thu tất cả lại
English and French
Tìm kiếm

Bài & Tin mới
TÍNH TOÁN CÁC ĐẶC TRƯNG THỦY VĂN THIẾT KẾ [27/01/2024]
CÔNG TRÌNH THỦY LỢI - ĐẬP BÊ TÔNG VÀ BÊ TÔNG CỐT THÉP - YÊU CẦU THI CÔNG VÀ NGHIỆM THU [22/01/2024]
CÔNG TRÌNH THỦY LỢI - KẾT CẤU BÊ TÔNG VÀ BÊ TÔNG CỐT THÉP THỦY CÔNG - YÊU CẦU THI CÔNG VÀ NGHIỆM THU [20/01/2024]
Như thế nào là Trạm bơm lớn, trạm bơm nhỏ? [29/01/2024]
Quyết định số 20/QĐ-TTg về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể lưu vực sông Mã thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 [17-01-2024]
Quyết định số 21/QĐ-TTg về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể lưu vực sông Hương thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 [17-01-2024]
Quyết định số 22/QĐ-TTg về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể lưu vực sông Đồng Nai thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 [17-01-2024]
Nghị định số 02/2024/NĐ-CP về việc chuyển giao công trình điện là tài sản công sang Tập đoàn Điện lực Việt Nam [17-01-2024]
Kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Cục Quản lý xây dựng công trình [26-12-23]
Chùm ảnh các công trình thuỷ lợi tiêu biểu ở VN 20 năm 2003-2023 [30-11-2023]
Danh mục các quy hoạch thủy lợi đã được phê duyệt [26-10-2023]
BÀN VỀ ĐỊNH HƯỚNG LẠI NGÀNH XÂY DỰNG THÔNG QUA CHUYỂN ĐỔI SỐ [26-10-2023]
Luật Đấu thầu số 22/2023/QH15 thay thế Luật Đấu thầu trước đây và có hiệu lực từ 01/01/2024 [15-10-2023]
Dự thảo TCVN 8731-20xx Phương pháp xã định hệ số thấm của đất bằng phương pháp đổ nước và múc nước trong hố đào và hố khoan [15-10-2023]
Đập Đắk N’Ting (Đắk Nông) trước nguy cơ bị vỡ [05-09-23]
QUYẾT ĐỊNH: Về việc hủy bỏ Tiêu chuẩn quốc gia [05-09-23]
Nghị định 35/2023/NĐ-CP [07-08-23]
Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ ĐỘNG ĐẤT Ở KONTUM NGÀY 14-07-2023 (2)[07-08-23]
HOẠT ĐỘNG HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2023 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM 6 THÁNG CUỔI NĂM [04-08-23]
 Số phiên truy cập

81576666

 
Quản lý Qui hoạch
Gửi bài viết này cho bạn bè

Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng – thách thức và giải pháp.[09/11/10]
Hội thảo ' Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng' ngày 26/10/2010

 

ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KẾT CẤU HẠ TẦNG – THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP

(Hội thảo ' Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng' ngày 26/10/2010)

 

TS Phạm Sỹ Liêm

PCT Tổng hội Xây dựng Việt Nam

Viện trưởng Viện Nghiên cứu đô thị và phát triển hạ tầng

 

 

  1. Mở đầu

    Đại lộ Thăng Long ngày 'khánh thành'

 

Mục tiêu chung nhất quán của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội nước ta là phấn đấu đến khoảng giữa thế kỷ XXI trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đạt mục tiêu đó về mặt kinh tế, nước ta phải có công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ hiện đại với cơ cấu tiên tiến, đồng thời phải có hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại, đồng bộ và hoàn chỉnh. Vai trò của Nhà nước hiện đại chủ yếu là một mặt tạo khuôn khổ pháp lý cho các lực lượng thị trường phát triển công nghiệp, nông nghiệp, dich vụ, và quản lý nhà nước bằng các công cụ hành chính, kinh tế, luật pháp, mặt khác phải trực tiếp chăm lo phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng để nền kinh tế (và cả các mặt xã hội và quốc phòng an ninh) vận hành được thông suốt và hiệu quả. Tuy cơ bản là như vậy nhưng không có nghĩa trong phát triển công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ hoàn toàn không có yếu tố nhà nước và trong phát triển kết cấu hạ tầng không có yếu tố thị trường.

Từ Đổi mới đến nay, Nhà nước ta đã từng bước nhận thức rõ vai trò của mình trong quản lý nền kinh tế theo cơ chế thị trường, dần dần giảm bớt việc dùng vốn nhà nước đầu tư cho sản xuất và dịch vụ mà tập trung công sức phát triển kết cấu hạ tầng, tạo điều kiện cho nền kinh tế cứ mười năm thì tăng GDP cả nước lên gấp đôi. Tuy đạt được nhiều thành tựu đáng phấn khởi nhưng để đạt được mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đề ra trong giai đoạn sắp tới thì việc phát triển lĩnh vực KCHT nước ta còn phải cố gắng vượt bậc hơn nữa. Chính vì vậy mà Dự thảo Chiến lược xem “xây dựng hệ thống KCHT đồng bộ với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn”là một trong 3 đột phá lớn.

Tham luận này mong đưa ra một số ý kiến vào việc nhận dạng các thách thức và đề xuất một số giải pháp tổng quát nhằm góp phần thúc đẩy lĩnh vực kết cấu hạ tầng hết sức quan trọng và tốn kém của nước ta chuyển sang một giai đoạn phát triển mới đậm đà lý tính hơn nữa.

 

  1. Thành tựu và hạn  chế

    2.1  KCHT và phát triển

Hiểu theo nghĩa rộng thì KCHT bao gồm KCHT kỹ thuật (còn gọi là KCHT kinh tế) và KCHT xã hội, còn hiểu theo nghĩa hẹp thì chỉ bao gồm KCHT kỹ thuật. Trừ khi được nói rõ còn thông thường trong các chuyên văn quốc tế, và cả trong tham luận này, KCHT được hiểu theo nghĩa hẹp, mà theo định nghĩa của Ngân hàng Thế giới(1) là bao gồm các dịch vụ công ích (public utilities) như cấp điện, viễn thông, cấp thoát nước và vệ sinh, thu gom xử lý rác, các công trình công cộng (public works) như đường bộ, đập và kênh mương thủy lợi, và các ngành vận tải khác (other transportation sectors) như đường sắt, giao thông đô thị, cảng và đường thủy, sân bay.

Thực tiễn nước ta hai thập kỷ qua chứng tỏ sự phát triển mạnh mẽ KCHT đã tạo điều kiện cho nền kinh tế nước ta tăng trưởng nhanh chóng, giúp nâng cao năng suất và hạ giá thành sản xuất, mở mang lưu thông, ứng phó với tăng trưởng dân số, giảm nghèo và cải thiện các điều kiện môi trường. KCHT phải tăng trưởng đồng bộ với nền kinh tế, nói chung số liệu thống kê của nhiều nước năm 1990 cho thấy cứ tương ứng với tăng 1% tổng quỹ KCHT thì GDP/đầu người cũng tăng thêm 1% (1).

    2.2  Thành tựu

 Từ khi Đổi mới, nước ta một mặt tiếp tục hoàn thành việc khôi phục hệ thống KCHT đã bị phá hủy trong chiến tranh, mặt khác phát triển mạnh mẽ hệ thống KCHT quốc gia và KCHT đô thị. Có thể kể ra nhiều thành tựu tiêu biểu cho KCHT trong hai chục năm qua như xây dựng nhiều nhà máy thủy điện, nhiệt điện lớn và mạng lưới điện thống nhất toàn quốc; nâng cấp và mở rộng hệ thống quốc lộ với một loạt cầu hầm lớn cùng với hệ thống sân bay, cảng biển; phát triển nhanh mạng viễn thông và Internet; hiện đại hóa cấp thoát nước và hè đường đô thị cùng hệ thống chiếu sáng công cộng; cải thiện giao thông và cấp nước sạch nông thôn. Vốn đầu tư hàng năm cho phát triển KCHT vào khoảng 9~10% GDP là con số rất lớn đối với ngân sách một nước còn nghèo, dù rằng phần lớn vốn đó dựa vào nguồn ODA.

Thông qua các dự án KCHT, nước ta tiếp thu được nhiều thành tựu công nghệ hiện đại của thế giới và cách quản lý dự án, kể cả các dự án lớn và phức tạp, theo cơ chế thị trường. Ngành xây dựng nước ta cũng nhờ đó mà trở nên lớn mạnh và dần dần trưởng thành.

      2.3 Hạn chế

Thành tựu của nước ta trong phát triển KCHT tuy to lớn nhưng vẫn chưa tương xứng với số tiền bỏ ra, cho nên có thể gọi là “thành tựu đắt đỏ”, thể hiện một cách tập trung nhất qua việc tăng nhanh chỉ số ICOR, vì vậy cần  nhận dạng rõ các mặt hạn chế, đồng thời phân tích hậu quả và nguyên nhân gây ra chúng. Các mặt hạn chế chủ yếu đó là:

1/ Dự án đầu tư thường ít được cân nhắc đánh giá đầy đủ về sự cần thiết, quy mô, thời điểm, hiệu quả kinh tế-xã hội và môi trường, và thứ tự ưu tiên. Hậu quả là gây lãng phí lớn vốn đầu tư đồng thời kìm hãm sự phát triển của những  ngành, những vùng đang rất cần vốn phát triển KCHT. Nguyên nhân là thiếu quy hoạch lãnh thổ toàn quốc và vùng để làm cơ sở cho quy hoạch KCHT; kế hoạch đầu tư dựa trên nguyên tắc phân công phân cấp mà thiếu sự chỉ đạo tập trung; phương pháp luận lập và thẩm định dự án không xét đến tính đặc thù của KCHT; vai trò của lực lượng tư vấn không được coi trọng đúng mức.

2/ Việc tổ chức thực hiện dự án thiếu tính chuyên nghiệp và kém tính minh bạch cả về phía chính quyền, chủ đầu tư, tư vấn và nhà thầu. Hậu quả là tiến độ thường kéo dài, quản lý rủi ro kém, thanh toán quyết toán chậm, tổng mức đầu tư cho dự án tăng. Điều đáng lo ngại là tình trạng tham nhũng trong đầu tư công ngày càng phổ biến và nghiêm trọng. Nguyên nhân là thể chế đầu tư công, thể chế thị trường xây dựng chậm tiếp thu kinh nghiệm quốc tế để đổi mới và ít quan tâm tổng kết đúc rút và phổ biến các bài học thực tiễn. Tình hình khép kín trong đầu tư xây dựng của các bộ ngành và địa phương tuy có giảm nhưng khắc phục chậm.

3/ Công tác vận hành, bảo trì và sửa chữa KCHT chưa được coi trọng đúng mức, thiếu kinh phí trầm trọng, chẳng hạn kinh phí duy tu đường bộ chỉ bằng một nửa nhu cầu tối thiểu.Việc thu phí dịch vụ công ích vẫn còn nặng ảnh hưởng tư duy bao cấp và quan điểm dân túy. Hậu quả là KCHT xuống cấp nhanh chóng, tuổi thọ bị rút ngắn, do đó cần vốn đầu tư lớn để sửa chữa lớn và nâng cấp. Nguyên nhân là tư tưởng thành tích, “tư duy nhiệm kỳ”, chỉ coi trọng việc xây mới để có kết quả nổi bật và cơ hội tham nhũng mà xem nhẹ các hoạt động bảo trì sửa chữa kịp thời, tuy rất cần thiết nhưng lặng lẽ âm thầm và khó “kiếm chác”.

 

  1. Nhu cầu và thách thức

Trong 10 năm sắp tới, quan điểm phát triển của nước ta là phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững. Để đạt mục tiêu phát triển nhanh thì phải bỏ nhiều vốn hơn nữa cho đầu tư xây dựng KCHT, còn để đạt được mục tiêu phát triển bền vững thì phải “bảo đảm sử dụng tiết kiệm các nguồn lực và hiệu quả kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường” (Dự thảo Chiến lược 2011-2020).

Nhu cầu phát triển KCHT cho giai đoạn sắp tới là rất lớn nhưng các thách thức cũng rất nghiêm trọng. Các thách thức chủ yếu là:

1/ Thiếu hụt tài chính.

Theo dự kiến thì tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của nước ta là 7~8% /năm, GDP năm 2020 theo giá so sánh bằng 2,2 lần so với năm 2010, GDP đầu người theo giá thực tế  khoảng 3000~3200 USD. Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, để đạt được mục tiêu phát triển nói trên thì nhu cầu vốn đầu tư cho KCHT phải từ khoảng 9~10% GDP như vừa qua  nâng lên tới ít nhất là bằng 11% GDP. Như vậy vào những năm cuối thập kỷ cần tới vào khoảng 30~35 tỷ USD/năm, rất lớn nếu so với khoảng 9~10 tỷ USD/năm như vừa qua.

Thách thức không chỉ ở tăng trưởng nhu cầu vốn mà còn vì nước ta đã trở thành nước thu nhập trung bình thấp nên vốn ODA, hiện đang là nguồn chủ yếu tài trợ cho các dự án KCHT, sẽ giảm dần rồi chấm dứt. Mặt khác, 10 năm tới cũng là thời gian trả nợ cho phần lớn các khoản vay ODA trước đây. Tóm lại, rất dễ xẩy ra tình trạng thiếu hụt tài chính cho đầu tư phát triển KCHT.

2/ Thể chế đầu tư công chậm được đổi mới.

Thể chế đầu tư công còn chịu nhiều ảnh hưởng thời bao cấp, còn nặng tính khép kín và xin cho, chậm mở cửa cho cơ chế thị trường hoạt động. Thể chế đầu tư công gắn với thể chế hành chính, mà thể chế này lại chậm được đổi mới, nhất là trong phân công, phân cấp của bộ máy chính quyền. Cơ chế hai nguồn ngân sách riêng biệt, một để chi cho đầu tư phát triển do Bộ Kế hoạch và Đầu tư điều hành, và một để chi cho vận hành, bảo trì và sửa chữa do Bộ Tài chính điều hành, khiến xẩy ra tình trạng thiếu phối hợp dẫn đến mất cân đối giữa hai nguồn vốn này.

3/ Trình độ còn non kém của toàn bộ công tác chuẩn bị đầu tư, từ khâu quy hoạch, lập và thẩm định dự án đến khâu lên kế hoạch và tổ chức thực thi, khiến việc sử dụng các nguồn lực bị phân tán và lãng phí. Năng lực cạnh tranh của ngành xây dựng tuy có được nâng cao nhưng vẫn chưa tương xứng với yêu cầu của phát triển KCHT hiện đại trong bối cảnh toàn cầu hóa.

4/  Việc sử dụng nguồn vốn ODA còn nhiều bị động khiến các dự án đầu tư phụ thuộc quá lớn vào các điều kiện của bên tài trợ, và thường là khá tốn kém do phải sử dụng tư vấn và nhà thầu nước ngoài, chẳng hạn suất đầu tư nhiều dự án cấp nước đô thị lớn gấp đôi, cá biệt lớn gấp ba suất đầu tư dự án tương tự chỉ sử dụng vốn trong nước, và một số dự án lớn  bị thừa tiền nhiều như dự án Hầm Hải Vân.

 

  1. Yêu cầu tổng quát đối với dự án KCHT

Trước khi nghiên cứu các giải pháp nâng cao hiệu quả phát triển KCHT, nên xem xét các yêu cầu tổng quát đối với dự án đầu tư xây dựng KCHT. Trong điều kiện cụ thể của nước ta, để khắc phục các hạn chế đã trình bày ở trên, các dự án đầu tư xây dựng cần đáp ứng được các yêu cầu sau đây:

1/ Phát triển KCHT phải đón trước nhu cầu của phát triển kinh tế. Yêu cầu này dễ hiểu nhưng không dễ thực hiện. Hiện nay, tiến độ chuẩn bị đầu tư và thực hiện đầu tư ít được giám sát chặt chẽ, nếu chậm trễ thì dễ dàng đổ lỗi cho khách quan. Ít ai đánh giá và quy trách nhiệm về các thiệt hại do sự chậm trễ này gây ra cho nền kinh tế, đặc biệt là các dự án năng lượng và giao thông.

2/ Phần lớn KCHT phải hình thành hệ thống đồng bộ thì mới phát huy được hiệu quả mong muốn, vì vậy rất cần áp dụng cách tiếp cận hệ thống khi nghiên cứu từng dự án. Phải chống xu hướng đầu tư xé lẻ để ai cũng có một ít cho “công bằng”.

3/ Do nguồn vốn đầu tư luôn luôn căng thẳng nên phải đưa ra được thứ tự ưu tiên, kiên quyết tuân thủ và tập trung nguồn lực theo thứ tự ưu tiên đó. Không để xẩy ra tình trạng vừa xây dựng xong đã phải mở rộng hoặc nâng cấp do vốn cấp không đủ vì bị san đều cho cả dự án ít quan trọng hơn.

4/ Phải khôn khéo sử dụng đúng chỗ công nghệ hiện đại và công nghệ thích hợp. Kết cấu hạ tầng cấp quốc gia phải dùng công nghệ hiện đại nhưng không nhất thiết là hiện đại nhất, và phải theo hướng tiết kiệm đất đai và năng lượng, bảo vệ môi trường.

5/ Phát triển phải đi đôi với quản lý vận hành và bảo trì sửa chữa kịp thời. Chống khuynh hướng cắt giảm chi phí vận hành khi ngân sách địa phương căng thẳng.

Để đáp ứng được các yêu cầu nói trên cần áp dụng một loạt giải pháp, bao gồm các giải pháp thể chế, chính sách và giải pháp về tổ chức thực hiện.

 

  1. Các giải pháp về thể chế, chính sách

Nhóm giải pháp về thể chế chính sách bao gồm các vấn đề về tài chính, quy hoạch, kế hoạch, lập và quản lý dự án. Do khuôn khổ tham luận có hạn nên ở đây chỉ nêu lên ý tưởng chính của từng giải pháp mà thôi.

1/ Tài chính KCHT

Đây là chủ đề chính yếu nhất và cũng khó khăn nhất, thậm chỉ với cả các nước đã phát triển.

Các nguồn lực tài chính cần thiết cho xây dựng mới, xây dựng lại và vận hành, bảo trì, sửa chữa KCHT được huy động từ các nguồn ngân sách (bao gồm cả nguồn vốn ODA), nguồn vốn tư nhân và từ sự đóng góp của cộng đồng theo chủ trương xã hội hóa.

Hiện nay để tăng nguồn ngân sách phát triển KCHT, Nhà nước ta cho phép phát hành trái phiếu chính phủ và của một số thành phố lớn. Đây là giải pháp tốt và cần thiết để bổ sung và thay thế dần cho nguồn vốn ODA, thế nhưng cũng chưa huy động được bao nhiêu, vì vậy cần tiếp tục hoàn thiện để tăng thêm khả năng thu hút.

Đất đai là nguồn lực quan trọng để phát triển quốc gia, thế nhưng hiện nay chưa khai thác được bao nhiêu, ngoài chính sách đổi đất lấy hạ tầng còn rất thô thiển và ít hiệu quả. Chủ trương đánh thuế nhà, đất đang bị hạn chế bởi những quan điểm dân túy, nhân danh quan tâm quyền lợi người nghèo nhưng thực ra làm lợi cho người giàu, do đó đã để sót nguồn thu quan trọng và ổn định cho ngân sách địa phương, nhất là ngân sách các đô thị. Cũng tương tự như thế, việc thu phí các dịch vụ công cộng bị xem nhẹ trong khi chất lượng dịch vụ lại cần được tăng lên, tình hình cứ luẩn quẩn mãi trong cái vòng quan hệ “con gà, quả trứng”mà chưa thoát ra được! Cơ chế dự trữ đất được nhiều quốc gia áp dụng có hiệu quả nhưng chưa được coi trọng ở nước ta, khiến giá đất đô thị tăng nhanh làm cho chi phí bồi thường giải phóng mặt bằng tốn kém, đầu tư KCHT đô thị đắt đỏ, tiến độ bị chậm trễ.

Tóm lại, cần tiếp tục đổi mới nhanh chóng chính sách đât đai để phát triển đất nước.

Việc huy động các nguồn vốn tư nhân vào phát triển và quản lý KCHT hiện đang bị bó hẹp trong mấy phương thức BOT, BTO, BT v.v. mà chưa có một chính sách toàn diện để huy động sự tham gia của khu vực tư nhân theo quan hệ đối tác công-tư (PPP), một cách biểu đạt khác của chủ trương xã hội hóa. PPP khác hẳn với tư nhân hóa ở chỗ Nhà nước và tư nhân (kể cả cộng đồng) thực hiện “3 chia sẻ”, tức là cùng chia sẻ lợi ích, trách nhiệm và rủi ro. Phương thức PPP không chỉ coi trọng việc tư nhân hay cộng đồng bỏ vốn đầu tư hay cùng đầu tư với Nhà nước, mà còn coi trọng cả việc cho tư nhân thuê KCHT hoặc thuê tư nhân vận hành KCHT để cung ứng dịch vụ theo điều kiện và có sự giám sát và giúp đỡ của chính quyền, thông qua đó mà sử dụng được năng lực chuyên nghiệp của họ và nâng cao chất lượng và hiệu quả của dịch vụ.

Một vấn đề khá nghiêm trọng trong tài chính KCHT là vấn đề cấp vốn thực hiện dự án trong năm kế hoạch. Kế hoạch vốn trong năm kế hoạch thường bao gồm phần vốn gối đầu, chủ yếu bị thu hút vào việc thanh toán khối lượng của năm trước, và phần vốn mà ngân sách sẽ thu được trong năm, mà trong quý 1 thực ra là vốn ảo vì ngân sách chưa thu được mấy, phải dành chi lương và các nhu cầu cần kíp khác, khiến tình trạng đầu năm đủng đỉnh, cuối năm hộc tốc của ngành xây dựng khó được khắc phục!

2/ Quy hoạch KCHT

KCHT thường hình thành mạng hay tuyến, nếu một khâu nào đó bị khuyết hoặc yếu kém thì hệ thống không vận hành hoặc vận hành kém hiệu quả. Có KCHT muốn vận hành có hiệu quả thì còn phải phối hợp với loại KCHT khác, chẳng hạn cảng hoặc sân bay phải kết nối tốt với hệ thống đường bộ tại địa phương.

KCHT không tồn tại vì bản thân nó mà vì sự phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường của một đô thị, một vùng hay cho cả quốc gia, vì vậy nó phải gắn với quy hoạch đô thi, quy hoạch vùng hay quy hoạch quốc thổ. Hiện nay mới có quy hoạch đô thị, đôi nơi mới có quy hoạch vùng, còn chưa có quy hoạch quốc thổ để thể hiện trong không gian chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của cả nước. Vì lẽ đó, để có cơ sở vững chắc cho việc lập quy hoạch phát triển KCHT các cấp, nước ta cần triển khai ngay xây dựng quy hoạch quốc gia và quy hoach vùng, đồng thời hiện đại hóa quy hoạch đô thị. Xin lưu ý là quy hoạch không gian chứ không phải quy hoạch mặt bằng, vì nhiều hệ thống KCHT sẽ đan xen nhau trong không gian trên và dưới mặt đất.

Phương pháp luận quy hoạch KCHT trên thế giới ngày nay đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm, nước ta nên nghiên cứu học tập để vận dụng vào nước mình. Để làm tốt việc này, xin đề nghị Bộ KH&ĐT nên có một viện chuyên về KCHT, nghiên cứu tổng kết các kinh nghiệm trong và ngoài nước, trực tiếp lập quy hoạch quốc thổ và quy hoạch KCHT cấp quốc gia, hướng dẫn và phổi hợp việc lập các quy hoạch ngành và quy hoạch vùng (trong đó có quy hoạch KCHT).

3/ Kế hoạch KCHT

Chú: Các nước gọi quy hoạch KCHT là planning, còn kế hoạch KCHT đôi khi gọi là programming.

Kế hoạch KCHT gồm 2 bộ phận là kế hoạch chuẩn bị đầu tư và kế hoạch thực hiện đầu tư. Trong khi kế hoạch thực hiện đầu tư thường được chú ý thì kế hoạch chuẩn bị đầu tư lại ít được quan tâm hơn và minh bạch hóa để giám sát chất lượng, tiến độ thực hiện và thu hút sự tham gia của công chúng, nhất là đối với dự án ODA. Cần sớm chấn chỉnh tình trạng này.

Vấn đề then chốt trong lập kế hoạch KCHT là việc xác định mức độ ưu tiên dựa trên kết quả phân tích chi phí-lợi ích (Cost-Benefit Analysis/CBA), mà ta thường gọi là hiệu quả kinh tế-xã hội. Thực ra chúng khác nhau xa, vì CBA định lượng hóa các lợi ích và so sánh chúng với chi phí bỏ ra, nếu dự án có lợi ích lớn thì chi phí có cao cũng có thể được ưu tiên. Ngoài ra, chi phí được tính cho cả chu trình sống (life-cycle) của KCHT chứ không chỉ riêng cho giai đoạn xây dựng. Xác định thứ tự ưu tiên dựa trên CBA hiển nhiên sát thực hơn khi chỉ dựa vào kết quả đánh giá định tính rất sơ sài về hiệu quả kinh tế-xã hội.

Việc lập kế hoạch đầu tư công của bất cứ nước nào cũng bị chi phối bởi các yếu tố chính trị, nhưng ở nước ta hiện nay sự chi phối đó còn khá nặng nề, vì vậy mong rằng có biện pháp hạn chế nó lại bằng cách tăng cường sự giám sát của công chúng.

 

  1. Phân công và phân cấp trong lĩnh vực KCHT

Chủ đề lớn và chung nhất trong tổ chức thực hiện đầu tư công ở nước ta là cơ chế phân công, phân cấp trong bộ máy nhà nước.

Phân công và phân cấp đầu tư và quản lý KCHT là rất cần thiết nhưng muốn đạt hiệu quả thì phải có cơ chế phối hợp và giám sát thích hợp. Nói chung, phân công, phân cấp phải làm tăng sức mạnh quốc gia chứ tuyệt đối không được làm yếu nó.

Phân công, dù ở cấp Trung ương hay cấp tỉnh, cấp đô thị, là để tăng tính chuyên nghiệp nhưng không được dẫn đến bản vị cục bộ. Đó là vì sự vận hành của nhiều chủng loại KCHT cần có sự phối hợp liên ngành; nhiều KCHT là đa mục tiêu; phát triển KCHT phải đi đôi với bảo trì, sửa chữa kịp thời và đúng mức; việc bảo vệ các KCHT có dạng tuyến rất phức tạp.

Phân cấp là để tăng cường năng lực tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đối tượng được giao quyền, nhưng phải phù hợp với năng lực của đối tượng đó và cấp trên phải có đủ năng lực giám sát, nếu không sẽ dẫn đến phân tán quyền lực rất nguy hiểm.

Cơ chế phân công, phân cấp của nước ta đã đóng góp hiệu quả vào phát triển đất nước, nhưng trong quá trình thực thi cũng bộc lộ một số thiếu sót cần được chấn chỉnh, nhất là trong bối cảnh triển khai cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong đầu tư công. Hiện nay Trung ương đang chỉ dạo thí điểm việc bỏ HĐND Quận, Huyện và Phường, thực ra là đã bước đầu xem xét lại cơ chế phân công, phân cấp, vì vậy đề nghị đặt việc này trong khuôn khổ rộng lớn hơn của chủ trương rà soát đánh giá toàn diện trên cơ sở khoa học hiện trạng phân công, phân cấp trong bộ máy nhà nước, bao gồm cả phân công, phân cấp trong đầu tư và quản lý KCHT.

Nên phân rõ các công chức trong bộ máy chính quyền làm công việc quản lý nhà nước về đầu tư và vận hành KCHT với những người chuyên nghiệp thuộc các doanh nghiệp, hiện thời chủ yếu vẫn là doanh nghiệp nhà nước, làm dịch vụ quản lý dự án và vận hành. Công chức thì phải có trình độ nghiệp vụ, bao gồm kiến thức, kỹ năng và đạo dức công vụ tương xứng, còn người hành nghề dịch vụ quản lý đầu tư và vận hành  thì phải có trình độ hành nghề, bao gồm kiến thức, kỹ năng và đạo đức nghề nghiệp tốt. Nếu tùy tiện sử dụng lẫn lộn thì tính chuyên nghiệp của cả hai loại nhân lực này đều không cao, khiến hiệu quả của dự án KCHT và việc cung ứng dịch vụ công cộng bị hạn chế. Sự phân biệt rõ vai trò của hai nguồn nhân lực này sẽ mở đường cho sự tham gia của khu vực tư nhân vào cung ứng dịch vụ quản lý dự án và vận hành KCHT, đồng thời đề cao trách nhiệm giám sát của công chức.

 

Kêt luận

Tham luận này chỉ điểm qua một số vấn đề và giải pháp mà tôi nghĩ là then chốt nhất chứ chưa đi sâu phân tích và thảo luận chi tiết. Nếu có vấn đề và giải pháp nào được quan tâm thì tôi xin trình bầy cụ thể hơn.

 

 

Tham khảo:

  1. WB. World Development Report 1994. Infrastructure for Development. Oxford University Press.
  2. W. Ronald Hudson, Ralph Hass, Waheed Uddin. 1997. Infrastructure Management. McGRAW-HILL.
  3. Alvin S. Goodman, Makarand Hastak. 2006. Infrastructure Planning Handbook. McGRAW-HILL.
  4. Ngân hàng Thế giới. Báo cáo Phát triển Thế giới 2004. Cải thiện các dịch vụ để phục vụ người nghèo. NXB Chính trị quốc gia.

 

Đóng góp ý kiến về bài viết này 

Mới hơn bài này
Các bài đã đăng
Tiêu điểm
Biến đổi khí hậu và An ninh nguồn nước ở Việt Nam.[08/07/21]
Đại hội lần thứ IV, sự kiện lớn của Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam.[27/04/19]
Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam phấn đấu vì sự nghiệp phát triển thủy lợi của đất nước.[18/04/19]
Danh sách Hội viên tập thể đã đóng niên liễm 2018.[11/01/19]
Chùm ảnh Đại hội lần thứ 2 Hội Đập lớn Việt Nam.[13/08/09]
Nhìn lại 5 năm hoạt động của VNCOLD trong nhiệm kỳ đầu tiên.[10/08/09]
Thông báo về Hội nghị Đập lớn Thế giới.[17/07/09]
Thư chào mừng của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải
VNCOLD đã thành công tại cuộc họp Chấp hành ICOLD Sofia (Bulgaria), 6/6/2008
Phó Thủ tướng khai mạc Hội thảo “ASIA 2008.
Tạo miễn phí và cách sử dụng hộp thư @vncold.vn
Website nào về Thủy lợi ở VN được nhiều người đọc nhất?
Giới thiệu tóm tắt về Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam.
Download miễn phí toàn văn các Tiêu chuẩn qui phạm.
Đập tràn ngưỡng răng cưa kiểu “phím piano".
Đập Cửa Đạt
Lời chào mừng
Qu?ng c�o