MƯA, LŨ DO BÃO SỐ 5 GÂY RA ĐỐI VỚI ĐÊ
VÀ ĐẬP CỬA ĐẠT THUỘC TỈNH THANH HÓA
NGUYỄN TIẾN ĐẠT
Bão số 5 đã đổ bộ vào đèo Ngang khu vực giữa Hà Tĩnh - Quảng Bình tối ngày 3-10 với sức gió gần tâm bão mạnh cấp 12, giật trên cấp 12.
Theo báo cáo nhanh số 254 ngày 10-10-2007 của Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Trung ương thì từ 2 đến 6-10-2007 do ảnh hưởng của bão số 5, các tỉnh từ Thanh Hóa đến Quảng Nam và cả các tỉnh Sơn La, Hòa Bình, Ninh Bình đã có mưa to đến rất to, trên nhiều sông đã xảy ra lũ lớn và lũ đặc biệt lớn.
- Trên sông Bưởi tại Thạch Thành (Kim Tân) là 14,25m (1h/6/X) trên BĐIII 2,75m, vượt đỉnh lũ cao nhất 1985 (13,99m) là 26 cm.
- Trên sông Chu tại Bãi Thượng là 20,64m (4h/5/X) trên BĐ III 2,64m và tại Xuân Khánh là 12,61m (13h/5/X) trên BĐ III 0,61m.
- Trên sông Mã do ảnh hưởng từ mưa lớn ở Sơn La, lũ đã dâng lên rất cao: Tại Cẩm Thủy là 21,87m (20h/5/X) trên BĐ III 1,67m, vượt đỉnh lũ cao nhất năm 1970 (21,71m) 16 cm, tại Lý Nhân là 13,21m (5h/6/X) trên BĐ III 1,24m, vượt lũ cao nhất năm 1973 (12,83 cm) 0,78m. Tại Giàng là 7,28m (4h/6/X) trên BĐ III thấp hơn đỉnh lũ cao nhất của năm 1980 (7,51m) là 23 cm.
Dưới đây là ảnh hưởng của mưa lũ đối với Đê và Đập Cửa Đạt ở Thanh Hóa:
I. ĐỐI VỚI ĐÊ
Lũ lớn với cường suất lên nhanh đã uy hiếp các tuyến đê và gây ngập lụt nhiều vùng:
- Đê của 3 huyện Hậu Lộc, Hoàng Hóa, Hà Trung xấp xỉ tràn, một số sự cố về cống và đê đã xảy ra, nhưng đã được cứu hộ kịp thời theo phương châm 4 tại chỗ nên không có tuyến đê sông chính nào bị vỡ.
- Đê sông Bưởi do lũ lớn vượt thiết kế nên đã có hiện tượng tràn và phải phân lũ qua tràn sự cố; Theo Sở NN-PTNT Thanh Hóa thì có 22 xã bị ngập trong đó có 2 xã và 01 thị trấn bị thiệt hại nhiều là xã Thành Kim, Thành Hưng và thị trấn Kim Tân và có 10 km đê đã bị tràn.
Theo báo cáo ngày 9-10-2007 của Văn phòng Ban chỉ đạo PCLBTW thì Thanh Hóa có số hộ bị ngập là 33.195 hộ/73.250 người, Ninh Bình có số hộ bị ngập là 16.450 hộ/55.000 người (do phân lũ qua tràn Đức Long, Gia Tường thuộc huyện Nho Quan và tràn Lạc Khoái thuộc huyện Gia Viễn).
II. ĐỐI VỚI ĐẬP CỬA ĐẠT
- Đập đá đắp bản mặt bê tông Cửa Đạt có chiều cao lớn nhất 118,5 m, chiều dài lớn nhất ứng với cao trình đỉnh đập +122,5 là 930m, cao độ thiên nhiên trung bình của lòng sông +25.
- Tràn xả lũ là loại tràn xả mặt bằng bê tông cốt thép, tiêu năng mũi phun.
- Tuy nen dẫn dòng có đường kính 9 mét, dài 802m, cao trình đáy cửa vào của tuy nen là +30.
- Đê quai thượng lưu đắp đến cao trình +45,7.
Dẫn dòng thi công và lũ.
- Tháng 12-2006 sau khi thi công xong phần thấp của đập chính đã lấp dòng và chuyển nước qua tuy nen.
- Năm 2007:
Mùa khô: Dẫn dòng qua Tuy nen.
Mùa lũ: Nước lũ qua Tuy nen và qua chiều rộng của đoạn đập đắp thấp dùng làm tràn tạm đã được gia cố ở cao trình +50.
Dựa theo tính toán lũ 5% ứng với lưu lượng Q5% = 5.030 m3/s, chọn khẩu độ đoạn tràn tạm này rộng 210m, chiều dài từ thượng lưu đến hạ lưu 250m.
Diễn biến của Đập Cửa Đạt trước lũ:
Trước ngày 4-10-2007, trừ đoạn thấp rộng 210m ở giữa đập để cho tràn tạm có cao trình +50m, tất cả hai bên đều đã đắp cao trên +70m.
+ Khoảng 4h30' ngày 4-10-2007 lũ đã tràn qua đê quai sanh ở cao trình +45 rồi tràn qua tràn tạm cao trình +50 m bố trí ở gần giữa đập chính.
Theo xác định ban đầu, lũ vượt thiết kế đã xói mạnh hạ lưu phía bờ phải, xói sâu phát triển lên thượng lưu và phá rộng về phía bờ phải khoảng 70-90 mét tạo thành luồng đủ kích thước cho lũ đi qua.
+ Hình ảnh tại hiện trường vào ngày 10-10-2007 cho thấy:
- Phần đập trên bãi và khoảng 60% đoạn đập giữa dòng còn nguyên vẹn nhưng khoảng 40% đoạn đập làm tràn tạm cùng phần đập đắp giáp bờ phải đã bị nước xói trôi như hình 1.
Chúng tôi đã đến Công ty Tư vấn XDTL Việt Nam để tìm hiểu về việc thoát lũ qua tràn tạm thì thấy Công ty đã nghiên cứu thận trọng vấn đề này và đã có báo cáo giải trình với những cơ sở sau:
1. Việc chọn tần suất thiết kế dẫn dòng là 5% và cho tràn tạm qua đập đã dựa trên các cơ sở sau:
a) Dựa trên TCXDVN 285: 2002 là 10% nhưng đã nâng tần suất lên 5% trên cơ sở xây dựng tiêu chuẩn thiết kế riêng của Ngành đối với công trình Cửa Đạt: 14 TCN 143-2004.
b) Dựa trên cơ sở tham khảo tiêu chuẩn của Trung Quốc, một số tài liệu của ICOLD (UB Quốc tế về đập lớn), ANCOLD (UB Quốc gia về đập lớn của Australia) và tổng kết kinh nghiệm xây dựng đập đá đắp bản mặt bê tông của Trung Quốc.
c) Dựa trên tham khảo chọn tần suất và dẫn dòng của đập Tuyên Quang (giống dạng Cửa Đạt). Đập Tuyên Quang cũng chọn tần suất 5%, cũng tham khảo thêm ở đập Hòa Bình, Sơn La, các đập này có quy mô lớn hơn nhưng khác về kết cấu và giải pháp dẫn dòng.
d) Công ty Tư vấn XDTL Việt Nam có so sánh việc làm 2 tuy nen để xả lũ, phương án dùng 2 tuy nen đường kính 11m chỉ xả được lưu lượng hơn 2000 m3/s ứng với mực nước trong hồ là 62 m nhưng kinh phí đắt hơn 370 tỷ, thời gian thi công lại kéo dài và khi gặp lũ tần suất như năm nay thì thiệt hại do lũ sẽ còn lớn hơn nhiều.
2. Vấn đề gia cố tràn tạm để thoát lũ
Do chế độ thủy lực qua tràn xây dở ở cao trình +50 rất phức tạp nên Công ty tư vấn đã hợp đồng với Phòng Thủy lực Viện Khoa học Thủy lợi để làm thí nghiệm mô hình với 7 phương án bố trí, hình thức, kết cấu bảo vệ phần tràn của đập đã đắp đang thi công dở để tìm ra phương án tối ưu. Trong quá trình thí nghiệm đã có sự tham gia giám sát của Tư vấn thiết kế, Tư vấn thẩm định và góp ý của các chuyên viên quản lý các cấp. Đồ án thiết kế dẫn dòng đã được lập theo đúng kết quả thí nghiệm và có sự thẩm định chặt chẽ của Tư vấn thẩm định và được thảo luận ở nhiều cuộc họp các cấp.
Ngày thực hiện 16-10-2007
N-T-Đ
|