Tuyên truyền và truyền thông trong lĩnh vực tài nguyên nước ở Việt Nam. [30/10/08]
29/10/2008 09:37
PHẦN I
TỔNG QUAN VỀ TRUYỀN THÔNG
TRONG LĨNH VỰC TÀI NGUYÊN NƯỚC Ở VIỆT NAM
Trước đây Việt Nam được coi là quốc gia có tài nguyên nước (TNN) dồi dào nhưng trước sự gia tăng nhanh về dân số và phát triển công - nông nghiệp, đô thị..., nguồn nước đã bị suy thoái nhanh cả về số lượng và chất lượng khiến lượng nước sạch có thể khai thác, sử dụng theo đầu người giảm sút nhanh.
Trước thực trạng trên cũng như từ kinh nghiệm của các nước phát triển hoặc các nước đang phát triển đi trước chúng ta đã thúc đẩy Việt Nam phải xem xét để tổ chức quản lý nguồn tài nguyên quý giá này.
Từ những năm 1980-1985, trên báo chí của các chuyên ngành liên quan đến đánh giá, sử dụng tài nguyên nước cũng như bảo vệ môi trường nước như các ngành: Khí tượng Thủy văn, Thủy lợi, Cấp thoát nước, Môi trường... đã dần dần có một số bài đề cập đến vấn đề về quản lý, bảo vệ tài nguyên nước. Tuy nhiên vào thời gian này, chức năng quản lý nhà nước về TNN chưa được giao chính thức cho Bộ nào nên chưa có Bộ ngành nào lo thực hiện nhiệm vụ truyền thông về TNN.
Năm 1998, Luật Tài nguyên nước của Việt Nam được Quốc hội thông qua. Điều 58 của Luật đã giao cho Bộ NN&PTNT chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về TNN.
Sau khi có Nghị quyết 02 của Quốc hội khóa 11 và Nghị định 91 của Chính phủ đã giao Bộ Tài nguyên & MT làm chức năng quản lý nhà nước về TNN.
Trong nhiệm vụ thứ 8 của điều 57 Luật Tài nguyên nước về nội dung quản lý nhà nước về TNN đã đề cập đến việc tuyên truyền phổ biến pháp luật về TNN.
Dưới đây xin nêu tổng quát về công tác tuyên truyền và truyền thông nói chung trong lĩnh vực TNN ở Việt Nam.
I. CÔNG TÁC TRUYỀN THÔNG CỦA CÁC BỘ CHỦ QUẢN VỀ NƯỚC
1. Bộ Nông nghiệp & PTNT
Trong các năm được giao quản lý nhà nước về TNN từ 1998 đến 11/2002 (4 năm), Bộ NN&PTNT đã tổ chức giới thiệu một số buổi về Luật Tài nguyên nước cho giới báo chí và một số cuộc hội thảo có liên quan đến nước do Bộ NN&PTNT tổ chức.
Thông qua Tạp chí Nông nghiệp & PTNT và một số ấn phẩm thông tin chuyên đề về Nước, các đơn vị chức năng liên quan của Bộ NN&PTNT cũng đăng tải để phổ biến trao đổi một số nội dung về chủ đề Nước.
Trong lĩnh vực cấp nước sinh hoạt cho nông thôn, các bản tin của Trung tâm nước sạch và VSMT của Bộ NN&PTNT cũng đã truyền thông được những thông tin về tình hình cấp và quản lý nước sạch - VSMT nông thôn.
Tuy nhiên việc tổ chức tuyên truyền pháp luật và truyền thông về TNN chưa được sâu rộng và còn nhiều hạn chế vì:
1) Chậm soạn thảo để trình duyệt ban hành một loạt văn bản cần thiết sau nhằm thực thi Luật TNN sau nhiều năm được ban hành như các văn bản về:
- Chiến lược TNN và các chính sách về nước, dịch vụ nước;
- Quản lý công tác điều tra cơ bản, lưu trữ các thông tin, dữ liệu về TNN;
- Cấp phép sử dụng nước và xả nước thải vào nguồn nước;
- Xử phạt các vi phạm hành chính về lĩnh vực TNN và bảo vệ môi trường nước.
2) Chưa cụ thể hóa một cách sinh động các nội dung quan trọng của Luật Tài nguyên nước thành các bài viết, bài giảng đơn giản, dễ hiểu để truyền thông cho các đối tượng trong cộng đồng cần tuyên truyền để mọi người hiểu và tham gia vào việc bảo vệ TNN đại thể như một số nội dung sau:
- Nước là nguồn tài nguyên có hạn lại dễ bị cạn kiệt và ô nhiễm, cần phải sử dụng tiết kiệm và bảo vệ.
- Nhu cầu sử dụng nước và dự báo nhu cầu sử dụng nước cho sinh hoạt, công - nông nghiệp...
- Nước cho phát triển bền vững.
- Nước cho sức khỏe.
- Lưu vực sông - Làm sao để hài hòa lợi ích của cộng đồng dân cư trên lưu vực, đặc biệt là ở hạ lưu.
- Nước dưới đất, quan hệ giữa nước mặt và nước dưới đất: Vấn đề khai thác và bảo vệ.
- Nước và thiên tai: sói mòn, sạt lở, lũ lụt, xâm nhập mặn...
Nhìn chung công tác tuyên truyền còn nhiều hạn chế, chưa có nội dung và hình thức tổ chức truyền thông trong cộng đồng.
2. Bộ Tài nguyên & Môi trường
Bộ Tài nguyên & MT được thành lập theo Nghị quyết 02 của Quốc hội khóa 11. Tháng 11/2002, Nghị định 91/2002/NĐ-CP xác định Bộ Tài nguyên & MT là cơ quan Chính phủ quản lý nhà nước về TNN.
- Tháng 6/2003 Bộ Tài nguyên & MT tiếp nhận chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên nước từ Bộ NN&PTNT chuyển sang và thành lập Cục Quản lý Tài nguyên Nước.
Dưới đây là một số kết quả hoạt động trong lĩnh vực truyền thông của Bộ Tài nguyên & MT:
a) Trong lĩnh vực quản lý TNN (do Cục Quản lý TNN thực hiện):
Trong 4 năm qua, với chức năng là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về TNN, Bộ đã đẩy mạnh việc xây dựng và trình duyệt để ban hành các Nghị định và Quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phục vụ cho công tác quản lý TNN như:
- Nghị định 162/2003/NĐ-CP ngày 19/12/2003 của Chính phủ về Quy chế thu thập, quản lý khai thác, sử dụng dữ liệu thông tin TNN.
- Nghị định 149/2004/ND-CP ngày 27/7/2004 của Chính phủ quy định về Cấp phép thăm dò, khai thác sử dụng TNN, xả nước thải vào nguồn nước.
- Nghị định 34/2005/NĐ-CP ngày 17/3/2005 của Chính phủ quy định về Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực TNN.
- Quyết định 81/2006/QĐ-TTg ngày 14/4/2006 của Thủ tướng Chính phủ về "Chiến lược Quốc gia về Tài nguyên nước đến năm 2020".
Sau khi soạn thảo trình Thủ tướng Chính phủ ban hành các Nghị định trên, Bộ Tài nguyên & MT đã xây dựng và ban hành các Thông tư hướng dẫn việc thực hiện các Nghị định trên, đồng thời tổ chức các lớp tập huấn cho đội ngũ cán bộ các Sở ở các vùng nhằm quán triệt quản lý thực hiện các Nghị định trên.
Cục Quản lý Tài nguyên nước cũng đã phối hợp với các cơ quan truyền thanh (Đài Tiếng Nói Việt Nam) và Truyền hình (Đài Truyền hình Việt Nam) để tổ chức một số buổi phát thanh và truyền hình nhằm giới thiệu và giải đáp những nội dung mà cộng đồng quan tâm và cần biết để tham gia thực hiện tốt.
b) Trong lĩnh vực bảo vệ môi trường nước (do Cục Bảo vệ Môi trường thực hiện):
Thực hiện chức năng của Cục Bảo vệ Môi trường trong các thập kỷ qua, Cục đã biên soạn rất nhiều tài liệu phục vụ cho tập huấn, truyền thông của các lớp học bồi dưỡng và truyền thông cộng đồng ở nhiều vùng khác nhau trên cả nước. Cục Môi trường cũng xuất bản các bản tin, Tạp chí và các ấn phẩm về thực trạng môi trường ở Việt Nam, ở một số lưu vực sông như sông Cầu, sông Nhuệ - Đáy, sông Đồng Nai... để phục vụ cho việc cung cấp thông tin nâng cao nhận thức và góp phần thực hiện để hạn chế ô nhiễm nước trên các lưu vực sông này.
Những truyền thông về bảo vệ môi trường, trong đó có môi trường nước lưu vực sông sau khi Luật Môi trường được ban hành năm 2005 hay truyền thông về trách nhiệm thực hiện Nghị định 67 về Phí bảo vệ môi trường (67/2003/NĐ-CP) cũng góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng đối với phí nước thải sinh hoạt mặc dù mức phí này đưa ra còn quá thấp, chưa đóng góp được đáng kể làm giảm thiểu ô nhiễm nguồn nước thải sinh hoạt.
II. CÔNG TÁC TRUYỀN THÔNG CỦA CÁC BỘ VÀ CÁC HỘI LIÊN QUAN VỀ NƯỚC
Các Bộ liên quan đến sử dụng nước khác như Bộ Xây dựng, Bộ Công nghiệp, Thủy sản (nay là Bộ NN&PTNT) và các Hội nghề nghiệp khác như: Hội Thủy lợi, Hội Cấp thoát nước, Hội Nước sạch và Vệ sinh Môi trường đã ra các ấn phẩm như Tạp chí, Đặc san, Bản tin... đã góp phần đăng tải các bài viết, thông tin liên quan đến TNN như:
- Đánh giá về TNN mặt, nước dưới đất trên phạm vi toàn cầu, các châu lục, các quốc gia và các vùng miền trên đất nước ta.
- Tình hình khai thác, sử dụng TNN chung ở Việt Nam và tình hình khai thác sử dụng của từng lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp...
- Tình hình ô nhiễm của một số sông điển hình ở Việt Nam.
- Những vấn đề đặt ra trong quản lý TNN ở Việt Nam.
- Tài chính nước trên thế giới, một số nước trong khu vực và ở Việt Nam.
- Những biện pháp tiết kiệm nước ở Việt Nam.
- Những kinh nghiệm về mô hình quản lý nước trên thế giới.
- Một số kinh nghiệm về mô hình cấp, quản lý nước sạch vệ sinh.
Nhìn chung lượng thông tin đăng tải phục vụ cho nghiên cứu về chủ đề Nước cũng rất phong phú trên một số Tạp chí, Đặc san, đặc biệt là Đặc san Tài nguyên nước. Tuy nhiên vì lượng phát hành chỉ đến các cơ quan quản lý và cán bộ nghiên cứu, chưa có sức lan tỏa xuống cộng đồng dân cư - những người có vai trò lớn trong sử dụng và bảo vệ TNN.
PHẦN II
TỔNG QUAN VỀ TRUYỀN THÔNG TRÊN THẾ GIỚI
TRONG LĨNH VỰC TÀI NGUYÊN NƯỚC
Nước là tài nguyên quý giá, thiết yếu cho sự sống và phát triển. Tại Hội nghị Thượng đỉnh ở Jonhanesburg - Nam Phi, nước đã được xếp vị trí hàng đầu trong phát triển. Vì vậy ở mọi nơi, đặc biệt là các quốc gia mà nguồn TNN không dồi dào, người ta rất quan tâm đến công tác truyền thông về nước để mọi tổ chức, mọi địa phương và mọi người nâng cao hiểu biết và góp phần vào việc sử dụng tiết kiệm và phòng chống suy thoái nguồn TNN quý giá này.
Qua tập hợp thông tin của nhiều nước, chúng tôi thấy mỗi nước có những hình thức truyền thông khác nhau nhưng đều có mục tiêu là để mọi người thấy được là nguồn nước có hạn, lại dễ bị suy thoá trong khi nhu cầu sử dụng thì lớn nên phải có ý thức sử dụng tiết kiệm và tham gia vào việc phòng chống suy thoái nguồn nước quý giá này.
Nhìn chung các chương trình truyền thông của các nước thường có môt số nội dung (chủ đề) chính sau:
1. Nguồn TNN thì có hạn trong khi nhu cầu sử dụng thì lớn và luôn tăng
A. Để giới thiệu về sự có hạn của TNN, một số nước có đưa ra hình ảnh như hình vẽ bên.
- Nước ngọt chỉ chiếm 2,5% trong khối lượng nước có trên hành tinh.
- Trong 2,5% thì: Thể băng chiếm 79%, nước dưới đất khó khai thác chiếm 20%, chỉ có 1% trên mặt đất trong số này thì:
+ Hồ chiếm 52%
+ Độ ẩm của đất 38%
+ Bốc hơi trong khí quyển 8%
+ Hình thành dòng chảy mặt 1%
+ Trong cơ thể sống của động thực vật 1
B. Để giới thiệu về nhu cầu sử dụng nước: Nhiều quốc gia đưa ra các hình ảnh và biểu bảng sinh động nói về khối lượng nước cần sử dụng để sản xuất ra 1 đơn vị sản phẩm (kg) lương thực hay 1 tấn bột giấy, tấn sợi, tấn thép... cũng như nhu cầu sử dụng nước cho sinh hoạt của con người và các vật nuôi. Qua đó ước tính dự báo ra nhu cầu sử dụng vào các mốc của các năm 2000, 2010, 2025.
2. Nước và sức khỏe - Qua đó đưa ra yêu cầu về chất lượng nước
Các thông tin truyền thông trong các nước đang phát triển thường đưa ra các nội dung và số liệu sau:
- Nước chiếm 70% trong lượng cơ thể con người, người ta có thể nhịn ăn 2-3 ngày nhưng không thể nhịn uống trong 1 ngày. Ngoài ăn uống thì các nhu cầu nước cho tắm rửa, vệ sinh cũng không thể thiếu.
- Khan hiếm nước và sử dụng nước không đảm bảo vệ sinh đã gây ra các bệnh về đường tiêu hóa, lỵ, tả, thương hàn...
- Theo số liệu của Tổ chức Y tế thế giới thì hàng năm có khoảng 25 triệu người chết do sử dụng nguồn nước không đảm bảo vệ sinh, trong số này chủ yếu là ở các nước đang phát triển. Một nửa số bệnh tật của trẻ em trên thế giới có nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp do sử dụng nguồn nước thiếu vệ sinh.
- Theo nhiều số liệu từ các tổ chức quốc tế thì hiện nay trên thế giới có đến gần 20% số dân trên thế giới thiếu nước sạch và có đến 50% số dân sử dụng nước không đảm bảo vệ sinh.
- Tùy tình hình mỗi nước họ nêu ra các số liệu về thực trạng cấp nước và vệ sinh ở đô thị và nông thôn và mục tiêu phấn đấu tới các mốc năm 2000, 2010, 2020...
- Giới thiệu tóm tắt các yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng nước cần phải đảm bảo ở các sông hồ và nước sinh hoạt để đảm bảo sức khỏe cộng đồng như các thông số về: lý hóa, các hợp chất bất lợi, các chất độc hại, các thông số về sinh vật (coli, virus...).
- Giới thiệu tóm tắt về các giải pháp xử lý nước có độ đục nhiễm phèn, mặn để sử dụng trong sinh hoạt.
3. Suy thoái TNN - Nguyên nhân và giải pháp kèm theo là lồng ghép giới thiệu về pháp chế và các quy định về vấn đề bảo vệ chống suy thoái TNN
Suy thoái TNN được biểu hiện ở sự giảm sút về số lượng và chất lượng thường dễ thấy ở tất cả các nước đang phát triển ở các mức độ khác nhau.
A. Về nguyên nhân: Thường các nước đưa ra các nguyên nhân sau:
a. Do gia tăng dân số.
b. Do khai thác quá mức các tài nguyên: đất, nước, rừng.
- Trong khai thác đất quá mức họ đưa ra các hình ảnh đốt nương rẫy, khai thác trồng trọt và bỏ hóa các triền đất dốc khiến đất bị rửa trôi, trơ đá gốc không giữ và điều tiết được nước, qua đó khuyến cáo về việc sử dụng và canh tác đất dốc để phòng giảm suy thoái TNN.
- Trong khai thác rừng, chặt phá rừng họ đưa ra các số liệu về suy giảm diện tích rừng và hậu quả của việc mất rừng đối với suy thoái TNN, đặc biệt là về mùa khô, qua đó họ khuyến cáo về việc phải bảo vệ rừng, đảm bảo tỷ lệ về độ che phủ của rừng, nhất là rừng đầu nguồn.
- Trong khai thác quá mức TNN họ nêu ra các hậu quả như:
+ TNN không thể tái tạo kịp, cạn kiệt.
+ Xâm nhập mặn sâu vào các cửa sông.
+ Nước mặn xâm nhập vào các tầng nước dưới đất ở ven biển gây phá hủy các tầng nước quý giá này.
Qua đó họ đưa ra các khuyến cáo và các quy định của nước họ cho từng lưu vực sông như:
· Đối với nước mặt: Không nên khai thác quá ngưỡng 30% dòng chảy mùa kiệt. Tùy khả năng nguồn nước và yêu cầu sử dụng ở hạ lưu và quy định ra mức dòng chảy môi trường.