Một số vấn đề về khảo sát địa chất công trình khi xây dựng đập lớn.
09/01/2007 23:32
Một số vấn đề về khảo sát địa chất công trình
khi xây dựng đập lớn
PGS.TS. Phạm Hữu Sy
Đại học Thuỷ lợi
Tóm tắt: Nói chung đập lớn là đập mà khi xảy ra sự cố sẽ gây thiệt hại lớn, vì vậy việc khảo sát, thiết kế, thi công cần phải hết sức cẩn thận để hạn chế khả năng xảy ra sự cố. Cho đến nay ở Việt
Abstract: Generally, high dam is that when happen a catastrophe with it will cause serious damage, so, it must be very carefully while conducting geotechnical investigation, design and construction in order minimize risk. Up to now in
Vấn đề "đập lớn" ở Việt
Trong lĩnh vực xây dựng dân dụng, công trình lớn được hiểu ngay là nhà cao tầng. Tuy chưa có một văn bản chính thức nào định nghĩa cao bao nhiêu thì được gọi là nhà cao tầng nhưng thông thường được hiểu phổ biến là từ 8 tầng trở lên và đã có một tiêu chuẩn ngành về khảo sát địa chất công trình cho xây dựng nhà cao tầng, đó là tiêu chuẩn TCXD 194:1997 Nhà cao tầng - Công tác khảo sát địa kỹ thuật.
Trong lĩnh vực thuỷ lợi - thuỷ điện, cho đến nay như đã nói, ngay cả thuật ngữ cũng chưa thống nhất nên chưa có một tiêu chuẩn quy phạm nào quy định công tác khảo sát địa chất công trình cho xây dựng đập lớn. Như vậy, rõ ràng, khi lập đề cương và thực hiện công tác khảo sát địa chất công trình cho xây dựng đập lớn chúng ta vẫn phải tuân thủ quy phạm hiện hành "Tiêu chuẩn ngành 14 TCN 115-2000 - Thành phần, nội dung và khối lượng khảo sát địa chất trong các giai đoạn lập dự án và thiết kế công trình thuỷ lợi", thu thập đủ số liệu để kỹ sư thiết kế tính toán lún, ổn định trượt và ổn định thấm, tuy nhiên chúng tôi cho rằng nên lưu ý thêm một số vấn đề sau đây:
1. Về áp dụng các phương pháp khảo sát
Các phương pháp khảo sát địa chất công trình để thu thập thông tin về các điều kiện địa chất công trình thông thường bao gồm:
- Đo vẽ địa chất công trình
- Khoan, đào thăm dò
- Thăm dò địa vật lý
- Thí nghiệm hiện trường (CPT, SPT, xuyên động, nén hông lổ khoan, cắt, nén trong hố đào, đổ nước, hút nước, ép nước trong hố khoan,...)
- Thí nghiệm trong phòng.
Khi khảo sát địa chất cho các công trình thông thường có thể chỉ áp dụng một hoặc hai phương pháp khảo sát nhưng đối với các đập lớn, nên kết hợp nhiều phương pháp để có kết quả bổ sung cho nhau, kiểm tra lẫn nhau. Nên tăng cường thí nghiệm hiện trường và trong phương pháp này nên thực hiện kết hợp nhiều loại thí nghiệm, ví dụ, nén tĩnh với nén hông lổ khoan; xuyên tĩnh với SPT,.... Khi các kết quả khảo sát thu được từ các phương pháp khảo sát khác nhau mà vênh nhau chúng ta nên phân tích kỹ lưỡng để lựa chọn kết quả hợp lý. Ví dụ, khi áp dụng đồng thời cả khoan, xuyên tĩnh, địa vật lý điện và địa chấn để xác định địa tầng mà kết quả không thật phù hợp, hãy phân tích lịch sử phát triển địa chất, các quy luật địa chất để phân lớp. Khi áp dụng đồng thời cả thí nghiệm trong phòng và hiện trường để xác định các tính chất cơ lý của đất mà không phù hợp nhau, hãy kết hợp phân tích nguồn gốc hình thành đất để lựa chọn. Chúng tôi có trao đổi với một số chuyên gia thiết kế, một số người thích các kỹ sư địa chất công trình đánh thấp các chỉ tiêu xuống để thiết kế cho an toàn. Chúng tôi nói rằng không phải lúc nào điều đó cũng đúng. ở đây chúng ta không bàn về cơ chế thẩm tra, thẩm định mà chỉ nói thuần tuý về góc độ chuyên môn. Đối với nhiều trường hợp, sau khi có kết quả thí nghiệm mẫu, khi cung cấp cho thiết kế thường đánh thấp xuống thì an toàn hơn nhưng cũng có trường hợp phản tác dụng. Ví dụ, đối với thí nghiệm đất đắp đập. Khi thiết kế với chỉ tiêu thí nghiệm thực, đất trong thân đập sẽ được đầm đủ độ chặt tối đa, sẽ hạn chế khả năng trương nở khi hồ tích nước. Ngược lại, khi người kỹ sư địa chất cung cấp chỉ tiêu gk nhỏ hơn chỉ tiêu thí nghiệm thực để thiết kế, thi công sẽ chóng đạt yêu cầu nhưng thực tế đất trong thân đập chưa đủ độ chặt tối đa sẽ phát huy trương nở khi tiếp xúc với nước. Đã có công trình nghiên cứu để chứng minh điều đó. Đối với đất nền cũng vậy, khi đào hố móng là đã bóc đi một lượng đất nhất định, tức là đã làm giảm tải ở độ sâu đặt móng. Tải trọng công trình thiết kế có "trách nhiệm" bù lại phần đất đã bóc đi. Nếu lấy nhỏ giá trị gtn của đất nền, trong trường hợp đất nền có tính trương nở có thể dẫn đến thiết kế sai làm nứt công trình. 18/24 công trình trên cùng một quả đồi đất đỏ basalt ở Hướng Hoá - Quảng Trị mà chúng tôi quan sát được đã chứng tỏ điều đó. Nhà càng nhẹ càng bị nứt nhiều.
2. Độ sâu khảo sát
Theo tiêu chuẩn ngành 14 TCN 115-2000, độ sâu các công trình thăm dò cho công trình đầu mối ứng với từng giai đoạn khảo sát như sau:
Giai đoạn khảo sát |
Độ sâu thăm dò |
Tiền khả thi |
(2/3¸1)H, nếu gặp đá nguyên khối thì sâu vào 2-5m |
Nghiên cứu khả thi |
- Tới lớp có khả năng làm nền công trình mà dưới tác dụng của công trình không làm ảnh hưởng tới sự thay đổi trạng thái của chính lớp đất đá nền đó. - Xác định được giới hạn trên của tầng cách nước (k< 5¸10 lần của lớp trên nó). -(2/3¸1)H, trường hợp đặc biệt có thể sâu hơn. |
Thiết kế kỹ thuật |
- Đối với đập bê tông: khoan vào đá phong hoá nhẹ và không quá 1,5 H. - Đối với đập không phải là đá: sâu vào phong hoá vừa 1¸3m, các hố tại tim tuyến sâu (2/3¸1)H. |
Bản vẽ thi công |
Như trong giai đoạn thiết kế kỹ thuật |
Đối với giai đoạn nghiên cứu tiền khả thi, khi mà chưa biết địa tầng của khu vực thì xác định độ sâu thăm dò theo kinh nghiệm (2/3¸1)H là hợp lý nhưng đối với các giai đoạn sau, khi đã biết địa tầng thì nên căn cứ vào địa tầng, lượng mất nước đơn vị và mức độ phát triển của các kẽ nứt kiến tạo (nếu có). Thông thường khi khoan ở vị trí dự kiến xây dựng đập bao giờ cũng đồng thời thí nghiệm ép nước trong hố khoan. Vậy thì đối với các giai đoạn sau, nên khoan đến độ sâu mà lượng mất nước đợn vị nhỏ hơn 0,01 l/ph.m liên tục trong 3 đoạn ép (mỗi đoạn ép 5m) thì dừng. Đập lớn trong nhiều trường hợp thường liên quan với cột nước lớn. Nếu quy định (2/3¸1)H có khi không kinh tế nếu nền là đá macma liền khối ít nứt nẻ hoặc không an toàn nếu là đá trầm tích xen kẹp lớp yếu trong những vùng chịu vận động kiến tạo mạnh trong quá khứ. Ngoài ra, khi nền đập có đứt gãy kiến tạo cắt qua và đã có hố khoan bắt gặp ở độ sâu nào đó thì nhất thiết phải nghiên cứu kỹ đới phá huỷ hoặc chiều dài gặp bùn đoạn tầng, căn cứ vào chiều dài bắt gặp và góc nghiêng để quy đổi chiều rộng của đứt gãy. Những thông số này rất quan trọng khi phân tích dự báo khả năng phát sinh động đất kích thích mà sẽ đề cập thêm dưới đây.
Ngoài điều quy định độ sâu (2/3¸1)H, các điều quy định khác đều không rõ ràng, ví dụ, "Tới lớp có khả năng làm nền công trình mà dưới tác dụng của công trình không làm ảnh hưởng tới sự thay đổi trạng thái của chính lớp đất đá nền đó". Người kỹ sư địa chất công trình không phải là nhà thiết kế, không thể tính để kiểm tra khả năng ảnh hưởng của công trình tới sự thay đổi của nền, càng không thể tính ở hiện trường trong thời gian đang khoan để có thể cho dừng khoan được hay chưa. Điều đó chỉ có thể nhận định cảm tính khi nền đá đã chuyển sang một loại cứng hơn hẳn những lớp đã khoan qua. Khi giám sát khoan cho nhà máy xi măng Nghi Sơn, chúng tôi đã gặp trường hợp hố khoan xâm nhập vào đá liền khối liên tục 5m không có một kẽ nứt nào nhưng sau đó lại tiếp tục gặp bùn vì đó chỉ là một khối đá lăn. Nếu quy định khoan vào đá phong hoá vừa 1¸3m trong trường hợp này thật là nguy hiểm.
3. Phạm vi đo vẽ địa chất công trình
Theo tiêu chuẩn ngành 14 TCN 115-2000, phạm vi đo vẽ địa chất công trình đối với hồ chứa và đập dâng trong các giai đoạn khảo sát như sau:
Giai đoạn khảo sát |
|