Thủy lợi Việt Nam, thành tựu và những thách thức trong phát triển.[30/03/10]
05/04/2010 10:44
THUỶ LỢI VIỆT NAM, THÀNH TỰU
VÀ NHỮNG THÁCH THỨC TRONG PHÁT TRIỂN
GS. TS. Đào Xuân Học
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp & PTNT
Trong những thập kỷ qua đặc biệt sau ngày thống nhất đất nước được sự quan tâm của Đảng và Chính phủ đã đầu tư xây dựng được hệ thống công trình thuỷ lợi đồ sộ: 1967 hồ chứa, 10.000 trạm bơm, 8.000 km đê sông đê biển phục vụ phát triển các ngành kinh tế, phát triển nông nghiệp, phòng tránh giảm nhẹ thiên tai, đào tạo gần trăm nghìn cán bộ làm công tác thuỷ lợi từ Trung ương đến địa phương ... do vậy góp phần quan trọng đưa Việt nam từ chỗ thiếu lương thực trở thành quốc gia xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới. Bộ mặt nông thôn mới không ngừng đổi thay, an ninh lương thực, an toàn trước thiên tai, ổn định xã hội, sử dụng nước sạch và vệ sinh môi trường được cải thiện. Tuy nhiên, do tốc độ nhanh của quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá đã khiến cho nhiều hệ thống công trình thuỷ lợi không đáp ứng kịp kể cả về quy mô lẫn sự lạc hậu của nó. Trước một thách thức mới của nhân loại là cuộc chiến chống biến đổi khí hậu mà Việt Nam là một trong 5 nước được đánh giá là ảnh hưởng nặng nề nhất, đòi hỏi cái nhìn toàn diện, một giải pháp tổng thể kể cả trước mắt và lâu dài. Báo cáo đề cập đến hiện trạng hệ thống công trình thuỷ lợi, những thách thức và đề xuất các giải pháp phát triển thuỷ lợi Việt Nam trong điều kiện mới.
I. Hiện trạng phát triển thuỷ lợi ở Việt Nam
1. Hiện trạng đầu tư xây dựng thuỷ lợi
Đã xây dựng 75 hệ thống thủy lợi lớn, 1967 hồ chứa dung tích trên 0.2 triệu m3, hơn 5.000 cống tưới, tiêu lớn, trên 10.000 trạm bơm lớn và vừa có tổng công suất bơm 24,8x106m3/h, hàng vạn công trình thủy lợi vừa và nhỏ.
Đã xây dựng 5.700 km đê sông, 3.000 km đê biển, 23.000 km bờ bao và hàng ngàn cống dưới đê, hàng trăm km kè và nhiều hồ chứa lớn tham gia chống lũ cho hạ du, các hồ chưa lớn thuộc hệ thống sông Hồng có khả năng cắt lũ 7 tỷ m3, nâng mức chống lũ cho hệ thống đê với con lũ 500 năm xuất hiện một lần. Tổng năng lực của các hệ thống đã bảo đảm tưới trực tiếp 3,45 triệu ha, tạo nguồn cho 1,13 triệu ha, tiêu 1,4 triệu ha, ngăn mặn 0,87 triệu ha và cải tạo chua phèn 1,6 triệu ha; cấp và tạo nguồn cấp nước 5-6 tỷ m3/năm cho sinh hoạt, công nghiệp, du lịch, dịch vụ...; Cấp nước sinh hoạt nông thôn đạt 70-75% tổng số dân.
2. Hiệu quả đầu tư phát triển thủy lợi
a. Tạo điều kiện quan trọng cho phát triển nhanh và ổn định diện tích canh tác, năng suất, sản lượng lúa để đảm bảo an ninh lương thực và xuất khẩu.
Các công trình thủy lợi đã góp phần, cải tạo đất chua, phèn, mặn, cải tạo môi trường nước như vùng Bắc Nam Hà, Nam Yên Dũng; vùng Tứ Giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười...
Phát triển thuỷ lợi đã tạo điều kiện hình thành và phát triển các vùng chuyên canh cây trồng, vật nuôi như lúa, ngô ở đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng, cao su và cà phê ở miền Đông nam Bộ, Tây Nguyên, chè ở Trung du và miền núi Bắc Bộ...
Nuôi trồng thủy sản phát triển bền vững tại những vùng có hệ thống thủy lợi bảo đảm nguồn cấp và thoát nước (nước ngọt, mặn) chủ động.
b. Phòng chống giảm nhẹ thiệt hại do thiên tai (lũ lụt, úng, hạn, sạt lở ...), bảo vệ tính mạng, sản xuất, cơ sở hạ tầng, hạn chế dịch bệnh:
Hệ thống đê biển ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ có thể ngăn mặn và triều tần suất 10% gặp bão cấp 9. Hệ thống đê Trung Bộ, bờ bao đồng bằng Sông Cửu Long chống được lũ sớm và lũ tiểu mãn để bảo vệ sản xuất vụ Hè Thu và Đông Xuân.
Các công trình hồ chứa lớn và vừa ở thượng du đã từng bước đảm bảo chống lũ cho công trình và tham gia cắt lũ cho hạ du.
Các công trình chống lũ ở ĐBSH vẫn được duy tu, củng cố.
c. Hàng năm các công trình thuỷ lợi bảo đảm cấp 5-6 tỷ m3 nước cho sinh hoạt, công nghiệp, dịch vụ và các ngành kinh tế khác:
Cấp nước sinh hoạt cho đồng bằng, trung du miền núi. Đến nay khoảng 70-75% số dân nông thôn đã được cấp nước hợp vệ sinh với mức cấp 60 l/ngày đêm.
Cấp nước cho các khu công nghiệp, các làng nghề, bến cảng.
Các hồ thuỷ lợi đã trở thành các điểm du lịch hấp dẫn du khách trong nước và quốc tế như: Đại Lải, Đồng Mô - Ngải Sơn, hồ Xuân Hương, Dầu Tiếng...
d. Góp phần lớn vào xây dựng nông thôn mới: thủy lợi là biện pháp hết sức hiệu quả đảm bảo an toàn lương thực tại chỗ, ổn định xã hội, xoá đói giảm nghèo nhất là tại các vùng sâu, vùng xa, biên giới.
e. Góp phần phát triển nguồn điện: hàng loạt công trình thuỷ điện vừa và nhỏ do ngành Thuỷ lợi đầu tư xây dựng. Sơ đồ khai thác thuỷ năng trên các sông do ngành Thuỷ lợi đề xuất trong quy hoạch đóng vai trò quan trọng để ngành Điện triển khai chuẩn bị đầu tư, xây dựng nhanh và hiệu quả hơn.
f. Góp phần cải tạo môi trường: các công trình thủy lợi đã góp phần làm tăng độ ẩm, điều hòa dòng chảy, cải tạo đất chua, phèn, mặn, cải tạo môi trường nước, phòng chống cháy rừng.
g. Công trình thuỷ lợi kết hợp giao thông, quốc phòng, chỉnh trang đô thị, phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn; nhiều trạm bơm phục vụ nông nghiệp góp phần đảm bảo tiêu thoát nước cho các đô thị và khu công nghiệp lớn.
3. Những tồn tại chính
a. Thuỷ lợi chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển của các đô thị lớn:
5 tỉnh, thành phố lớn đang bị ngập lụt nặng do ngập triều (TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Cà Mau, Hải Phòng và Vĩnh Long). Thành phố Huế và các đô thị khu vực Trung Bộ, ngập úng do lũ. Thành phố Hà Nội và các đô thị vùng đồng bằng sông Hồng ngập úng nặng do mưa.
b. Các công trình phòng chống và giảm nhẹ thiên tai, mặc dù cũng đã đầu tư xây dựng nhiều hồ chứa thượng nguồn kết hợp hệ thống đê dưới hạ du nhưng hiện nay hệ thống đê biển, đê sông và các cống dưới đê vẫn còn nhiều bất cập, phần lớn đê chưa đủ mặt cắt thiết kế, chỉ chống lũ đầu vụ và cuối vụ, chính vụ (miền Trung), các cống dưới đê hư hỏng và hoành triệt nhiều.
Hiện tượng bồi lấp, xói lở các cửa sông miền Trung còn diễn ra nhiều và chưa được khắc phục được.
c. Nước thải không được xử lý hoặc xử lý không triệt để đổ vào kênh gây ô nhiễm nguồn nước trong hệ thống thủy lợi: Bắc Đuống, Sông Nhuệ...
d. Quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá và nuôi trồng thủy sản làm thay đổi diện tích và cơ cấu sự dụng đất tạo ra những yêu cầu mới đối với công tác thuỷ lợi. Nhu cầu cấp nước sinh hoạt ở nông thôn, thành thị, nhu cầu tiêu thoát tại nhiều khu vực tăng lên nhanh chóng.
e. Mâu thuẫn quyền lợi, thiếu sự phối kết hợp giữa các ngành, địa phương nên công trình chưa phát huy hiệu quả phục vụ đa mục tiêu. Nhiều công trình hồ chứa lớn trên dòng chính có hiệu quả cao về chống lũ, phát điện, cấp nước đã được nghiên cứu, đề xuất trong các quy hoạch thủy lợi nhưng sau này do yêu cầu cấp bách về năng lượng nên nhiệm vụ của công trình tập trung chủ yếu vào phát điện mà bỏ qua dung tích phòng lũ cho hạ du (chi phí đầu tư xây dựng công trình, giải phóng mặt bằng, tái định cư ... rất lớn).
f. Một số hệ thống thuỷ lợi có hiệu quả thấp do vốn đầu tư hạn chế nên xây dựng thiếu hoàn chỉnh, đồng bộ. Nhiều công trình chưa được tu bổ, sửa chữa kịp thời nên bị xuống cấp, thiếu an toàn.
g. Việc thực thi Pháp lệnh khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi, Luật Đê điều và Pháp lệnh phòng, chống lụt, bão còn xem nhẹ.
h. Tổ chức quản lý khai thác công trình thủy lợi chưa tương xứng với cơ sở hạ tầng hiện có, nhất là các tỉnh khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
i. Nguồn nhân lực còn hạn chế về trình độ, phân bố không hợp lý, thiếu hụt nghiêm trọng kỹ sư thủy lợi ở địa phương, vùng sâu, vùng xa. Theo số liệu điều tra mẫu trên phạm vi 5 tỉnh thành toàn quốc:
- Ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh tập trung trên 70% lực lượng lao động thuỷ lợi được đào tạo, trong khi đó ở các tỉnh vùng núi phía Bắc, Tây nguyên và duyên hải miền Trung chiếm tỷ lệ rất nhỏ (nhất là ở các huyện và xã), có huyện không có kỹ sư thuỷ lợi phụ trách công tác thuỷ lợi.
- Theo số liệu thống kê, trình độ kỹ sư thuỷ lợi/1 vạn dân ở Hà Nội là 1,64, thành phố Hồ Chí Minh 0,89, Hà Giang 0,56, Quảng Bình 0,09 và Đăk Lăk là 0,21.
II. Biến đổi khí hậu và thách thức đối với ngành thuỷ lợi
1. Biến đổi khí hậu
Trong 10 năm qua, các yếu tố khí hậu Việt Nam có nhiều biến đổi: Số trận bão hàng năm vào ven biển nước ta tăng 0,4 trận.
Theo kịch bản của Bộ Tài Nguyên và Môi trường: Đến năm 2010 nhiệt độ trung bình năm tăng khoảng 2,3oC (so với trung bình thời kỳ 1980-1999). Tính chung cho cả nước, lượng mưa năm tăng khoảng 5% (so với thời kỳ 1980-1999).
2. Nguồn nước
Theo đánh giá của ADB, đến năm 2070, dòng chảy vào tháng cao điểm của sông Mekong dự báo tăng 41% ở đầu nguồn và 19% ở vùng đồng bằng. Còn vào các tháng mùa khô, dòng chảy giảm khoảng 24% ở thượng nguồn và 29% ở vùng Đồng Bằng. Dòng chảy mùa kiệt ở lưu vực sông Hồng giảm 19%; mực nước lũ có thể đạt cao trình +13,24 xấp xỉ cao trình đỉnh đê hiện nay +13,40 (Báo cáo Viện Quy hoạch Thuỷ lợi). Điều đó có nghĩa là khả năng lũ trong mùa mưa và cạn kiệt trong mùa khô đều trở nên khắc nghiệt hơn.
Do chế độ mưa thay đổi cùng với qúa trình đô thị hoá và công nghiệp hoá dẫn đến nhu cầu tiêu nước gia tăng đột biến, nhiều hệ thống thuỷ lợi không đáp ứng được yêu cầu tiêu, yêu cầu cấp nước. Cùng với tác động của biến đổi khí hậu, nguồn nước sạch sẽ trở nên khan hiếm, có khoảng 8,4 triệu người Việt Nam thiếu nước ngọt vào năm 2050.
3. Mực nước biển dâng
Nếu mực nước biển dâng 0,75-1,0m, ngoài 5 thành phố lớn như đã nói ở trên sẽ bị ngập úng do triều thì hầu hết các thành phố ven biển khác sẽ bị ngập triều, đặc biệt là các ấp, xã ở ĐBSCL. Về mùa lũ, vào những năm lũ lớn khoảng 90% diện tích của ĐBSCL sẽ bị ngập lũ với thời gian khoảng 4-5 tháng.
Hai khu vực được đánh giá có nguy cơ ngập triều gây mặn nặng nhất là Bến Tre và Cà Mau. Theo dự báo của ADB, diện tích ngập triều thường xuyên có thể ở trên mức 20% và khoảng 20 triệu người bị ảnh hưởng đến nơi ở. Cũng do nước biển dâng, chế độ dòng chảy sông suối sẽ thay đổi theo hướng bất lợi, các công trình thuỷ lợi sẽ hoạt động trong điều kiện khác với thiết kế, làm cho năng lực phục vụ của công trình giảm.
Nước biển dâng làm mặn xâm nhập sâu vào nội địa, các cống hạ lưu ven sông sẽ không có khả năng lấy nước ngọt vào đồng ruộng (xem Hình 1); vào mùa khô sẽ có khoảng trên 70% diện tích ĐBSCL sẽ bị xâm nhập mặn với nồng độ lớn hơn 4g/l.
Mực nước biển dâng làm hệ thống đê biển hiện tại có nguy cơ tràn và vỡ đê ngay cả khi không có các trận bão lớn. Ngoài ra, do mực nước biển dâng cao làm chế độ dòng chảy ven bờ thay đổi gây xói lở bờ.
Vùng đồng bằng sông Hồng hiện có khoảng 55 hệ thống thủy nông, thủy lợi vừa đảm bảo tưới cho 765.000 ha (trong đó, tưới lúa mùa khoảng 580.000 ha, màu và cây công nghiệp dài ngày 7.000 ha), diện tích được tiêu khoảng 510.000 ha. Tuy nhiên, các công trình tiêu nước vùng ven biển hiện nay hầu hết đều là các hệ thống tiêu tự chảy; khi mực nước biển dâng lên, việc tiêu tự chảy sẽ hết sức khó khăn, diện tích và thời gian ngập úng tăng lên tại nhiều khu vực.
Vùng miền trung khoảng 5.500 ha sẽ bị ngập, thời gian ngập lũ sẽ dài hơn, lũ đén sẽ khốc liệt hơn và dòng chảy kiệt sẽ suy giảm đáng kể.
Đối với hệ thống đê sông, đê bao và bờ bao, mực nước biển dâng cao làm cho khả năng tiêu thoát nước ra biển giảm, kéo theo mực nước các con sông dâng lên, kết hợp với sự gia tăng dòng chảy lũ từ thượng nguồn sẽ làm cho đỉnh lũ tăng thêm, uy hiếp sự an toàn của các tuyến đê sông ở các tỉnh phía Bắc, đê bao và bờ bao ở các tỉnh phía Nam.
| |
Hình 1. Giới hạn xâm nhập mặn 4%o tương ứng với các kịch bản khác nhau của nước biển dâng |
4. Nhu cầu nước và khả năng cân bằng nước trong tương lai
- Nhu c