Biến đổi khí hậu – Nỗi lo chẳng của riêng ai.[31/03/10]
06/04/2010 08:06
BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU- NỖI LO CHẲNG CỦA RIÊNG AI
Sau hội nghị thượng đỉnh Copenhagen (4-18/12/2009) trên các phương tiện thông tin đại chúng toàn cầu đã đề cập nhiều đến nguy cơ của biến đổi khí hậu ngày càng tác động lớn đến cuộc sống của hành tinh chúng ta. Do tính phức tạp của biến đổi khí hậu, những hiểu biết chưa thật đầy đủ của nhân loại cùng với yếu tố tâm lý, kinh tế, xã hội dẫn đến các khó khăn đồng thuận khi đề xuất các giải pháp mang tính hệ thống với các chỉ tiêu cụ thể ứng phó với biến đổi khí hậu. Việt Nam là 1 trong các nước chịu ảnh hướng lớn nhất của biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Phóng viên báo Xây dựng mới có cuộc phỏng vấn tiến sĩ Tô Văn Trường (nguyên Viện trưởng Viện Quy hoạch Thuỷ lợi miền Nam) thành viên ban chủ nhiệm chương trình KC08/06-10 của Bộ Khoa học Công nghệ liên quan đến sử dụng tài nguyên, phòng chống thiên tai và bảo vệ môi trường, xung quanh các vấn đề về biến đổi khí hậu tác động đến Việt Nam, đặc biệt là ở đồng bằng sông Cửu Long.
PV: Biến đổi khí hậu (BĐKH) là thuật ngữ ngày càng trở nên quen thuộc với công luận, được các nhà chính trị, nhà khoa học và người dân trên thế giới quan tâm. Ông có thể khái quát đôi nét chủ yếu về nguyên nhân và quá trình BĐKH trên hành tinh chúng ta?
TVT: BĐKH là sự biến đổi trạng thái của khí hậu so với trung bình và/hoặc dao động của khí hậu duy trì trong một khoảng thời gian dài, thường là vài thập kỷ, hàng trăm năm hoặc dài hơn. BĐKH có thể là do các quá trình tự nhiên hoặc do hoạt động của con người làm thay đổi thành phần của khí quyển. BĐKH là vấn đề của sự phát triển, là thách thức lớn nhất đối với mục tiêu phát triển bền vững, hiểm hoạ tiềm tàng đối với nhân loại. Trong khí quyển, 78% là khí Nitơ, 21% là khí oxy và 1% là các khí khác. Trong quá khứ, thời kỳ địa chất khoảng 2 triệu năm trước công nguyên, trái đất đã trải qua nhiều lần băng hà xen lẫn những kỳ tan băng với chu kỳ khoảng 100 nghìn năm. Nguyên nhân của BĐKH là do sự dao động của các nhân tố liên quan đến quỹ đạo chuyển động của trái đất, sự thay đổi của bề mặt trái đất, hàm lượng khí CO2 trong khí quyển, hoạt động của núi lửa, lượng mây, những thay đổi bên trong vỏ trái đất và độ mặn của đại dương. Từ thời kỳ tiền công nghiệp bắt đầu khoảng 1850 – 1870 biểu hiện đầu tiên là sự rút lui của các sông băng ở Na Uy và trên dãy núi Anpơ. Nhiệt độ bề mặt trái đất tăng lên ngày càng nhanh, theo Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) trong 100 năm qua (1906 - 2005), nhiệt độ trung bình toàn cầu đã tăng 0,74oC. Trong 50 năm cuối, nhiệt độ trung bình tăng nhanh gấp 2 lần (0,13oC/1 thập kỷ). Nguyên nhân BĐKH trong thời kỳ hiện đại do tổng hợp tác động của các nhân tố tự nhiên và nhân tố con người làm tăng hiệu ứng nhà kính của khí quyển, tạo ra một lượng bức xạ cưỡng bức (tăng thêm) là 2,3w/m2, làm cho bề mặt trái đất và lớp khí quyển tầng thấp nóng lên. Mực nước biển trung bình toàn cầu đã tăng với tỷ lệ trung bình 1,8mm/năm trong thời kỳ 1961 - 2003 và tăng nhanh hơn với tỷ lệ 3,1mm/năm trong thời kỳ 1993 - 2003. Tổng cộng mực nước biển trung bình toàn cầu đã tăng 0,17m trong thế kỷ 20.
PV: Ông có thể cho biết hậu quả của BĐKH đến Việt Nam, đặc biệt đối với các lĩnh vực và các vùng dễ bị tổn thương nhiều nhất?
TVT: Những tác động tiềm tàng của BĐKH có thể nhận biết được như đối với con người, cây trồng và vật nuôi, làm tăng tần số, cường độ, tính biến động và tính cực đoan của các hiện tượng thời tiết nguy hiểm như bão, tố, lốc, các thiên tai liên quan đến nhiệt độ và mưa như thời tiết khô nóng, lũ lụt, ngập úng hay hạn hán, rét hại, xâm nhập mặn, các dịch bệnh trên người, trên gia súc, gia cầm và trên cây trồng. Hậu quả của BĐKH đối với VN là nghiêm trọng, nguy cơ hiện hữu tác động đến mục tiêu xoá đói giảm nghèo, thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ và phát triển bền vững của đất nước. Các lĩnh vực, ngành, địa phương dễ bị tổn thương và chịu tác động mạnh mẽ nhất của BĐKH: Tài nguyên nước, sức khoẻ con người, nông nghiệp-an ninh lương thực và đa dạng sinh học. Các vùng đồng bằng và ven biển như đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) bị tác động nặng nề nhất vì BĐKH và nước biển dâng.
Qua phân tích số liệu thấy lượng mưa gia tăng vào mùa mưa, lũ đặc biệt lớn xảy ra thường xuyên hơn ở miền Trung và miền Nam. Mưa trái mùa và mưa lớn dị thường xảy ra nhiều hơn, nổi bật là các đợt mưa tháng 11 ở Hà Nội và lân cận trong các năm 1984, 1996, 2008. Số ngày mưa phùn giảm đi rõ rệt. Ảnh hưởng của hiện tượng El Nino và La Nina đến nước ta rõ rệt hơn trong những thập kỷ gần đây (1981 - 2007), nhiều cực trị mới về nhiệt độ và lượng mưa xảy ra vào những đợt ENSO trong thời kỳ này. Hạn hán nặng trên diện rộng thường xảy ra vào những năm El Nino gần đây, trong đó ở Trung Bộ là các năm 1983, 1987, 1992, 1993, 1997, 1998, 2002, 2003, 2004. Những trận lũ lụt lớn và đặc biệt lớn thường xảy ra vào những năm La Nina. Ở Trung Bộ là những năm 1975, 1978, 1988, 1990, 1995, 1996, 1999, 2001. Mới vào đầu năm 2010 hạn hán, cháy rừng xảy ra nhiều nơi trong cả nước. Đường đi của bão có xu thế dịch chuyển về phía Nam và mùa bão dịch chuyển vào các tháng cuối năm. Tần số hoạt động của không khí lạnh ở Bắc Bộ giảm rõ rệt trong 3 thập kỷ qua. Số ngày rét đậm, rét hại trung bình giảm, nhưng có năm xảy ra đợt rét đậm kéo dài với cường độ mạnh kỷ lục như đầu năm 2008. Số ngày nắng nóng trong thập kỷ 1991 - 2000 nhiều hơn, nhất là ở Trung Bộ và Nam Bộ. Số ngày nắng nóng tăng lên trong các thập kỷ gần đây, nhất là ở Trung Bộ và Nam Bộ làm ảnh hưởng đến năng suất cây trồng.
PV: Theo dự báo của các chuyên gia trên thế giới Việt Nam là một trong những nước dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu, đặc biệt là nước biển dâng. Theo ông, chúng ta đang đứng trước cơ hội và thách thức như thế nào để đối phó với BĐKH?
TVT: Cơ hội đối với Việt Nam phát thải khí nhà kính chưa bị ràng buộc bởi Nghị định thư Kyoto. Cần khai khai thác tốt các nguồn tài chính và công nghệ tiên tiến chuyển giao từ các nước phát triển theo Nghị định thư Kyoto để đẩy nhanh tốc độ phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đồng thời ứng phó hiệu quả với BĐKH. Cơ hội sản xuất, kinh doanh và việc làm được tạo ra trong quá trình ứng phó với BĐKH, cả thị trường trong nước và thế giới, trong việc đổi mới công nghệ, đặc biệt là công nghệ năng lượng ít cacbon, công nghệ thu hồi cacbon, các giống cây trồng, vật nuôi cùng các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ kèm theo. Cơ hội để cải cách hành chính, phát triển và quản lý khu vực, tăng cường đàm phán quốc tế về BĐKH.
Thách thức đối với các hoạt động ứng phó với BĐKH đối với Việt Nam cũng như các nước nghèo chưa phải là ưu tiên hàng đầu trong chính sách phát triển của Nhà nước. Nguồn lực bị hạn chế giữa chính sách đầu tư phát triển kinh tế xã hội với đầu tư ứng phó với BĐKH và những hiểm hoạ lâu dài do BĐKH gây ra. Các chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn - lĩnh vực chịu tác động mạnh mẽ nhất của BĐKH, bao gồm những đối tượng nghèo khổ nhất nhằm bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, xoá đói giảm nghèo với yêu cầu đổi mới kỹ thuật canh tác, giảm phát thải khí Mêtan - loại khí nhà kính chiếm tỷ lệ lớn trong tổng lượng phát thải của Việt Nam. Chưa có nhận thức đầy đủ về sự cần thiết của việc lồng ghép BĐKH trong quy hoạch, thiết kế và thực thi các chính sách, đặc biệt là chưa gắn kết BĐKH với các hoạt động giảm đói nghèo và việc làm. Việc tập trung khai thác tài nguyên đất, nước, rừng để phát triển kinh tế có thể góp phần làm gia tăng BĐKH, nước biển dâng và ô nhiễm môi trường.
PV: Xuất phát điểm kinh tế của nước ta thấp, tăng trưởng kinh tế những năm gần đây cao nhưng chưa bền vững, tỷ lệ người nghèo còn cao, khả năng tự ứng phó với BĐKH còn hạn chế, chiến lược và các giải pháp ứng phó chung đối với BĐKH của nước ta nên như thế nào có hiệu quả cao nhất?
TVT: BĐKH là vấn đề toàn cầu và của mỗi quốc gia. Ứng phó với BĐKH vừa là vấn đề cấp bách, vừa có tính chiến lược lâu dài. Ứng phó với BĐKH là các hoạt động của con người nhằm thích ứng và giảm nhẹ BĐKH. Các nhà khoa học trên thế giới đã xác định BĐKH bất khả kháng ít nhất là trong thế kỷ 21, cho nên thích ứng là tất yếu. Thích ứng với BĐKH là điều chỉnh hệ thống tự nhiên hoặc con người đối với hoàn cảnh hoặc môi trường thay đổi, nhằm giảm sự tổn thương đối với dao động và BĐKH hiện hữu hoặc tiềm tàng và tận dụng các cơ hội do nó mang lại. Hay nói cách khác, thích ứng tốt không chỉ làm giảm hậu quả tác động do BĐKH mà cũng góp phần hạn chế và giảm nhẹ BĐKH. Chiến lược thích ứng với BĐKH cần được xác định là trọng tâm trong chiến lược quốc gia ứng phó với BĐKH.
Các hoạt động thích ứng với BĐKH cần được triển khai ngay ở các địa phương, các lĩnh vực và có trọng tâm, trọng điểm, có ưu tiên như tăng cường các chính sách, cơ chế, chương trình dự án nhằm nâng cao năng lực thích ứng của các hệ thống tự nhiên và xã hội đối với BĐKH. Chú trọng quy hoạch phát triển, quản lý, xử lý ô nhiễm môi trường, khai thác và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, phòng tránh thiên tai hiệu quả, bền vững. Xây dựng các chỉ tiêu (ngưỡng) về BĐKH đối với các ngành các lĩnh vực. Chiến lược thích ứng với BĐKH cần được ưu tiên lồng ghép vào các chính sách, kế hoạch phát triển. Ứng phó với BĐKH đòi hỏi sự tham gia của mọi người, mọi ngành, mọi tổ chức với sự hợp tác rộng rãi trong nước và quốc tế. Tăng cường tổ chức nâng cao năng lực thực hiện chiến lược ứng phó với BĐKH. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong toàn xã hội về BĐKH và những tác động của chúng cũng như những hoạt động ứng phó với BĐKH của Việt Nam.
PV: BĐKH rất phức tạp, là vấn đề toàn cầu, chúng ta có thể học hỏi được kinh nghiệm từ các nước để triển khai những biện pháp cho phù hợp với Việt Nam hiện nay?
TVT: Ngay từ năm 1979, hội nghị lần thứ nhất của Tổ chức Khí tượng thế giới tại Thụy Sĩ khuyến cáo các nước tiên liệu và ngăn ngừa nguy cơ BĐKH do con người gây ra vì nó có thể có ảnh hưởng xấu đến sự thịnh vượng của nhân loại. Năm 1988, Ủy ban liên chính phủ về BĐKH (IPCC) được thành lập. Các tổ chức quốc tế và các nước tiên tiến đã giúp đỡ Việt Nam về tăng cường năng lực, các thông tin số liệu, các phương pháp luận đánh giá tác động của BĐKH. Chúng ta áp dụng mô hình động lực, mô hình chi tiết hoá thống kê, các phương pháp nội, ngoại suy theo xu thế của mô hình toàn cầu. Việt Nam đã xây dựng các Thông báo quốc gia, kiểm kê khí nhà kính, xây dựng và đánh giá các phương án giảm nhẹ thiên tai.
Việt Nam hiện đang thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH : xây dựng kế hoạch hành động ứng phó BĐKH tại các ngành và các cấp; đồng thời với việc tích cực thực hiện các hoạt động huy động tài trợ quốc tế về BĐKH để thực hiện các chương trình hành động. Các ngành, các cấp đang xây dựng các đề xuất dự án ứng phó với BĐKH để huy động tài trợ quốc tế, trước hết từ quỹ các-bon, quỹ công nghệ sạch, các ngân hàng quốc tế và các đối tác truyền thống của Việt Nam.
PV: ĐBSCL là vựa lúa đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và xuất khẩu, có sản lượng thuỷ sản và cây ăn trái lớn nhất cả nước nhưng lại là nơi có nguy cơ bị thiệt hại nặng nề nhất của BĐKH, nước biển dâng. Xin ông cho biết chúng ta cần có các giải pháp cụ thể như thế nào để đảm bảo cuộc sống an toàn cho người dân và phát triển kinh tế bền vững?
TVT: Một số nghiên cứu khoa học đã xác định ĐBSCL chịu sự thách thức kép của BĐKH từ nguồn và thách thức từ biển, có quan hệ tương tác diễn ra giữa sông, sóng và triều, ba đỉnh của tam giác phân loại châu thổ, chuyển dần từ dạng triều chi phối sang dạng sóng - triều chi phối. Theo số liệu thực đo trong 21 năm qua (1988-2008), mực nước nước biển dâng là một thực tế ở ĐBSCL. Mực nước biển trung bình tăng 11,8 mm/năm ở Bình Đại, 14,5 mm/năm ở Mỹ Thanh, mực nước trung bình ở trạm thuỷ văn Năm Căn là 9,8 cm và biến đổi bình quân trong 21 năm qua là 16,8 mm/năm. Mực nước đỉnh triều cao nhất trong năm tăng bình quân 18,2 mm/năm ở Bình Đại, 14,2 mm/năm ở trạm An Thuận (sông Hàm Luông).
ĐBSCL muốn phát triển bền vững phải có cách tiếp cận tổng hợp, hệ thống, liên ngành, liên vùng, đặc biệt quản lý và khai thác nguồn nước theo lưu vực sông trên cơ sở hợp tác giữa các nước thượng lưu và hạ lưu sông Mê Công. Quan điểm tích hợp phải được thể hiện trong các chiến lược, chương trình, quy hoạch, kế hoạch phát triển của các ngành, các địa phương được thể chế hoá bằng các văn bản quy phạm, pháp luật và được quán triệt trong trong tổ chức thực hiện.
Việc mô phỏng các tác động của thiên nhiên và nền kinh tế theo mực nước biển dâng và kịch bản phát triển khác nhau cần được tiến hành để tìm ra các biện pháp/giải pháp thích hợp. Từ chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH, Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn đã xây dựng khung chương trình hành động thích ứng với BĐKH của ngành nông nghiệp và PTNT giai đoạn 2008-2020. Nhằm giảm thiểu và thích nghi với BĐKH-nước biển dâng , cách tốt nhất kết hợp nhuần nhuyễn giữa giải pháp công trình (đê, cống, đập) với các giải pháp phi công trình (công tác dự báo, cảnh báo, chuyển đổi cơ cấu sản xuất thích hợp, phổ biến và phát triển công nghệ nông nghiệp, đẩy mạnh trồng rừng ngập mặn vv…). Việc thích ứng với BĐKH ở ĐBSCL sẽ đòi hỏi những tiến bộ trong ba lĩnh vực sau: (1) sáng kiến thích ứng với BĐKH, (2) tăng cường các sáng kiến phát triển đang thực hiện để hỗ trợ cho việc thích ứng với BĐKH, và (3) thực hiện các khoản đầu tư và các chính sách thích ứng với BĐKH. Các nhà khoa học trên thế giới còn nhiều tranh luận về BĐKH cho nên cần luôn tỉnh táo, cập nhật thông tin, kiến thức. Vị thế của ĐBSCL hiện nay là thành quả đầu tư của Nhà nước và nhân dân ta từ sau ngày giải phóng, cho nên chúng ta phải có trách nhiệm bảo vệ và phát huy các thành quả đó trước bất kỳ biến cố nào.
Con người không thể tách rời với thiên nhiên, môi trường sống của mình. Ngay từ thời Vua Lý Nhân Tông đã có chiếu chỉ “Tương thân, tương ái, tương kính với thiên nhiên”. Cha ông ta đã nhận thấy nguy cơ trả thù của tự nhiên do con người vì phát triển kinh tế một cách thiếu khôn ngoan dễ tàn phá môi trường sống của chính mình. Thiên tai ngày càng nhiều và lớn, nước ngọt và năng lượng ngày càng hiếm. Xây dựng mô hình phát triển bền vững, sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư là yêu cầu kể cả trước mắt và lâu dài cho đất nước nói chung và ĐBSCL nói riêng. Biến đổi khí hậu-Nỗi lo chẳng của riêng ai. Thế hệ hôm nay đừng để nước đến chân mới nhảy và không có quyền để lại mọi gánh nặng cho thế hệ sau.
PV: Xin cám ơn ông
Dương Thảo thực hiện