Sử dụng nước tại Thái Bình.[31/03/11]

01/04/2011 08:49

16

Sử dụng nước tại Thái Bình

(trích tham luận tại

   “Đánh giá ảnh hưởng của tình trạng cạn kiệt trên sông Hồng tới nước tưới cho nông nghiệp, môi trường và các ngành dùng nước”-

Hội Đập lớn & PT nguồn nước VN

                                                                                 Đỗ Như Hồng

CHI CỤC TRƯỞNG

THỦY LỢI THÁI B̀NH

 

Hiện trạng tình hình sử dụng nguồn nước sông Hồng:

Tỉnh Thái Bình có 3 mặt giáp sông, một mặt giáp biển và được chia ra hai hệ thống thuỷ nông: bắc và nam. Hệ thống bắc giáp các sông Hồng, s. Luộc – s. Hoá; s. Trà Lý. Hệ thống nam giáp các sông Hồng và s. Trà Lý.  

Nguồn nước mặt cấp cho sản xuất và dân sinh đối với tỉnh duy nhất là từ sông Hồng. Dòng chảy sông Hồng trên địa bàn tỉnh Thái Bình ngoài dòng chính sông Hồng còn phân vào các nhánh sông Luộc – sông Hoá, sông Trà Lý.

  1. Nước tưới cho sản xuất nông nghiệp:

            Diện tích yêu cầu tưới của toàn tỉnh là 95.300 ha, trong đó diện tích trong đê là 85.300 ha, còn lại diện tích ngoài bãi .

            Hiện tại trong cơ cấu mùa vụ của tỉnh hàng năm có 4 vụ:

                        + Vụ xuân: diện tích trồng lúa  83.300 ha; diện tích màu 10.400 ha;

                        + Vụ hè:     diện tích màu  2.370 ha;

                        + Vụ mùa:  diện tích trồng lúa  84.170 ha; diện tích màu 11.120 ha;

                        + Vụ đông: diện tích các cây màu 40.000  ha;

            Ngoài ra diện tích cần được cấp nước tưới là cây công nghiệp  808 ha; diện tích nuôi trồng thuỷ sản 7.200 ha.

b.Yêu cầu cấp nước sinh hoạt từ sông Hồng cho hầu hết 8 huyện, thành phố với số dân trên 1,8 triệu người;

c. Cấp nước cho các khu, cụm công nghiệp, các làng nghề:

Trên địa bàn tỉnh có trên 580 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và khoảng 60.000 cơ sở sản xuất công nghiệp cá thể.

Hiện có 219 làng nghề tại 147 xã (trong tổng số 265 xã của tỉnh) phát triển các ngành nghề thủ công truyền thống, trong đó nổi tiếng như chạm bạc Đồng Xâm, dệt nhuộm Phương La, thêu Minh Lãng...

Thực tế hàng năm Thái Bình vẫn còn khoảng 10 đến 20 nghìn ha vụ xuân bị hạn thường xuyên do mực nước nguồn xuống thấp, lưu lượng cấp nước qua các cống tưới giảm nhiều so thiết kế. Đặc biệt do biến đổi khí hậu trong những năm hạn điển hình như vụ xuân các năm 1999  và liên tục từ năm 2004 tới năm 2011 mực nước trên sông Hồng xuống rất thấp, mặn xâm nhập sâu  vào cửa sông, nhiều cống lấy nước chủ lực không mở được hoặc thời gian mở rất hạn chế với xu thế mỗi năm mức độ nnguồn cấp nước từ sông Hồng khó khăn, gay gắt hơn, toàn tỉnh có khoảng 30 nghìn ha khó  khăn về nguồn nước tưới nhất là giai đoạn đổ ải, chưa kể diện tích nuôi trồng thuỷ sản ven biển khoảng 10.000 ha.

               d. Tình hình xâm nhập mặn:

          Sự xâm nhập mặn và mực nước trên sông Hồng, sông Hóa và sông Trà Lý cũng như các sông vùng hạ du Thái Bình lại phụ thuộc hoàn toàn vào sự điều tiết của hồ chứa Hòa Bình; Thác Bà và Tuyên Quang. Thực tế theo dõi nhiều năm trở lại đây nước mặn ngày càng lấn sâu hơn vào khu vực nội tỉnh: hai huyện Thái Thụy, Tiền Hải những năm qua vụ xuân bị ảnh hưởng của mặn trên triền sông Hoá lên tới khu vực cầu Nghìn, triền Trà lý mặn ảnh hưởng lên qua cống Thái Phúc tới giáp cống Thuyền Quan là cống lấy nguồn nước chủ yếu của vùng Nam huyện Thái Thuỵ, triền sông Hồng mặn xâm nhập lên tới cống Nguyệt Lâm là cống lấy nguồn nước chủ yếu của huyện Tiền Hải. Trong giai đoạn đổ ải  thời gian mở cống rất hạn chế, diện tích các vùng Nam, Bắc quốc lộ 10 (vùng Tân Đệ) của huyện Vũ Thư, vùng Tiến Đức, Hồng An, Phú Sơn... (Hưng Hà), Quỳnh Hoàng, Quỳnh Ngọc ( Quỳnh Phụ... do thiếu nguồn nước hàng loạt máy bơm trơ giỏ phải ngừng bơm); Vùng tự chảy thường xuyên thuộc các huyện Quỳnh Phụ, Kiến Xương không lấy được tự chảy nên rất bị động về tưới, đã ảnh hưởng tiến độ gieo cấy lúa xuân.

 Đánh giá ảnh hưởng của tình hình cạn kiệt trên sông Hồng:

1. Hạn chế năng lực các cống lấy nước từ dòng chảy của sông Hồng:           

Tổng số cống lấy nước nguồn hiện tại của toàn tỉnh là 37 cống, trong đó: cống lấy nước tưới ven sông Hồng: 5 cái; ven sông Trà Lý:  18 cái; ven sông Luộc 6 cái; ven sông Hoá 8 cái

Năng lực các cống lấy nước ven sông Hồng, sông Luộc – sông Hoá, sông Trà Lý trong điều kiện những năm dòng chảy mùa kiệt sông Hồng bình thường đủ đảm bảo yêu cầu cấp nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp vụ đông xuân.

Trong những năm qua kể từ năm 2004 tới năm 2010, tình trạng dòng chảy mùa kiệt của sông Hồng có xu hướng ngày càng cạn kiệt không bình thường, gây ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực lấy nước của hệ thống các công trình tưới của tỉnh Thái Bình. Qua theo dõi quá trình vận hành các công trình, sự ảnh hưởng biểu hiện cụ thể như sau:

* Trường hợp khi chưa có sự điều tiết của các hồ chứa thuỷ điện:

- Giai đoạn triều kém khi không có điều tiết của các hồ thuỷ điện mực nước thấp các cống chỉ lấy được 2-3 giờ trong một ngày và có ngày không lấy được nước.

- Giai đoạn triều cường khi không có điều tiết của các hồ thuỷ điện, thời gian mở cống lấy nước TB từ 6 – 8 giờ trong một ngày.

Nhìn chung khi dòng kiệt sông Hồng không có điều tiết của các hồ thuỷ điện thì mực nước thấp, mặn xâm nhập sâu vào cửa sông, ảnh hưởng trực tiếp năng lực cấp nguồn nước của các cống dưới đê như sau:

+   Lưu lượng nước lấy được qua các cống nhỏ hơn so thiết kế;

+  Tổng lượng nước lấy qua các cống nhỏ do số lượng cống tưới mở lấy được nguồn nước ít hơn vì một số cống tưới chủ lực ở hạ lưu bị mặn không mở được hoặc mở được rất hạn chế như: c. Thuyền Quan ( trên sông Trà Lý), c. Hệ ( trên sông Hoá), c. Nguyệt Lâm ( trên sông Hồng) gây khó khăn về nguồn nước cho hai huyện ven biển Thái Thuỵ và Tiền Hải.

* Trường hợp có sự điều tiết của các hồ chứa thuỷ điện:

Đánh giá tác động của các đợt xả nước của các hồ chứa thuỷ điện trong các vụ xuân từ năm 2007 đến nay cho thấy

Giai đoạn triều cường mực nước sông Hồng ở khu vực Thái Bình cao hơn so với không có điều tiết của các hồ từ 30 - 40 cm, đẩy mặn lùi xuống phía cửa biển tăng được các cống lấy nước, lưu lượng lấy nước lớn hơn, thời gian mở cống tăng lên TB mở được 9 -11 giờ/ngày.

Thực tế điều hành nước trong những năm qua cho thấy mực nước các sông Hoá, sông Trà Lý  ngày càng cạn kiệt hơn, không đáp ứng đủ yêu cầu đổ ải vụ xuân và càng khó khăn hơn do không có nguồn nước để thau chua rửa mặn cho vùng đất chua mặn của tỉnh. Hai năm qua về vụ xuân tỉnh không điều tiết xả tiêu nước thau chua mặn vì không có đủ nguồn nước. Do vậy hạn chế rất lớn đến việc cải tạo đất và thâm canh. Trong khi đó tài nguyên nước lại tự do chảy ra biển do không có đập ngăn giữ.   

2. Hạn chế năng lực hoạt động của các trạm bơm:

Thái Bình có 1185 trạm bơm có quy mô từ 88.000 m3/h đến 540 m3/h. Khi mực nước sông Hồng cạn kiệt, dòng chảy sau các cống lấy nước từ sông Hồng cho các trạm bơm ở mực nước thấp, đã hạn chế khả năng hoạt động của các trạm bơm tưới như phải giảm số máy bơm, về thời gian bơm ít dẫn đến thời gian tưới kéo dài. Đặc biệt giai đoạn đổ ải yêucầu lấy nước tập trung chủ yếu trong tháng 2, gây tình trạng mực nước các sông trục dẫn vào các trạm bơm thường xuyên duy trì ở mức thấp. Hệ thống sông trục phần lớn chưa được đầu tư nạo vét còn nông lại còn nhiều vật cản làm cho mực nước sông dẫn trạm bơm càng hạ thấp, nhiều trạm bơm trơ giỏ không hoạt động, đa số trạm bơm hoạt động trong điều kiện mực nước thấp, số máy bơm hoạt động không đạt mức thiết kế, thời gian đổ ải kéo dài.

Trường hợp mực nước sông Hồng giai đoạn tưới dưỡng xảy ra gay gắt như trong giai đoạn đổ ải nếu không có điều tiết của các hồ thuỷ điện tình trạng hạn hán ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng chắc chắn sẽ gây hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng năng suất cây trồng trong khu vực và ảnh hưởng tới an ninh lương thực của cả nước.

Nhu cầu sử dụng nước sông Hồng giai đoạn tới 2020:

-Dự báo yêu cầu sử dụng nguồn nước sông Hồng giai đoạn 2011-2020: tổng lượng nước mặt khai thác từ sông Hồng phục vụ các ngành kinh tế  thuộc địa bàn tỉnh Thái Bình trung bình khoảng 1.571.536.200 m3/năm. Trong đó, khai phục vụ cho sản xuất nông nghiệp trung bình vào khoảng 1.268.831.000 m3/năm (chiếm 80,7%), phục vụ nuôi trồng thủy sản 287.236.900 m3/năm (chiếm 18,2%), phục vụ cấp nước sinh hoạt 6.307.200 m3/năm (chiếm 0,4%), phục vụ cấp nước công nghiệp vào khoảng 9.198.000 (chiếm 0,6%).

- Theo kết quả tính toán của Quy hoạch sử dụng tổng hợp nguồn nước lưu vực sông Hồng - Thái Bình, nếu điều tiết dòng chảy sông Hồng với lưu lượng để dâng mực nước tại Hà Nội phải đạt  từ 2,5 m trở lên thì  mới đảm bảo mực nước cho các cống vùng hạ du của các tỉnh, trong đó Thái Bình hoạt động bình thường.

 Những nhược điểm của hệ thống công trình lấy nước trên sông Hồng:

Trong quy hoạch thuỷ lợi vùng kẹp giữa sông Hồng, sông Hoá trong điều kiện biến đổi khí hậu xác định một số  cống lấy nước đầu mối cần bổ sung xây mới như: cống Phú Lạc; các cống hiện có đều phải cải tạo nâng cấp, mở rộng tăng năng lực cấp nước trong trường hợp mực nước xuống thấp, mặn xâm nhập sâu ;  

- Hệ thống sông trục chính của 2 hệ thống thuỷ nông bắc, nam đang được đầu tư nạo vét, hệ thống sông trục cấp I, II, III bị bồi lắng nông, hẹp, bị vi phạm lấn chiếm cản trở dòng chảy khả năng dẫn nước hạn chế nhất là khi mực nước xuống thấp

- Hệ thống trạm bơm của tỉnh hầu hết được cải tạo từ trục ngang sang trục đứng ( hiện còn khoảng 200 trạm bơm chưa cải tạo) và được thiết kế bơm ở mực nước trung bình những năm bình thườn