Nói lại cho rõ về đê bao – bờ bao.[04/04/14]
04/04/2014 14:05
NÓI LẠI CHO RÕ VỀ ĐÊ BAO - BỜ BAO
Tô Văn Trường
Tôi đọc bài viết “Đê bao đồng bằng sông Cửu Long không sai lầm vĩ đại như tác giả đảng xanh đã phán” của nhà báo Lê Phú Khải. Ông là nhà báo, nhà văn lăn lộn nhiều năm với thực tế, có nguồn tư liệu rất phong phú để viết những cuốn sách và bài báo về con người và cuộc sống của người dân Nam bộ. Tôi cũng đã đọc nhiều ý kiến phản biện, tôn trọng lắng nghe ý kiến đa chiều, xin nói rõ thêm, những vấn đề sau đây: Tháng 10 năm 1996, sau gần chục năm làm việc ở nước ngoài, tôi về nước làm việc, được Bộ NN & PTNT giao cho làm chủ nhiệm dự án kiểm soát lũ đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Việc đầu tiên, tôi tập trung nghiên cứu Quyết định 99/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 9/2/1996. Đây là chủ trương đúng đắn được sự đồng thuận cao của các cấp, các ngành và nguyện vọng của người dân. Để cập nhật các thông tin tư liệu, đi sâu tiến công vào vùng lũ, cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung các tác động từ phía thượng lưu và ảnh hưởng của xâm nhập mặn trong dự án Quy hoạch kiểm soát lũ đồng bằng sông Cửu Long. Trước đó, tỉnh Kiên Giang nhiều đất đai bị bỏ hoang đã cho công ty Kiên Tài (Đài Loan) thuê 40 nghìn ha đất rừng tràm. Khi làm quy hoạch, bị vướng hướng thoát lũ do công ty làm các bờ bao khép kín. Nhùng nhằng rất lâu vì phía Việt Nam muốn thu lại đất nhưng đền bù không thỏa đáng. Tôi nhớ, hồi đó ông Võ Văn Kiệt phone gọi tôi ra Hà Nội thảo luận tại Văn phòng chính phủ. Cuộc họp chỉ có 4 người ông Võ Văn Kiệt, Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Anh Vũ Đức Đam trợ lý của ông Kiệt. Trước khi ra Hà Nội, tôi đã thảo luận với chuyên gia của Phân viện Quy hoạch thiết kế nông nghiệp và Phân viện điều tra quy hoạch rừng để thống nhất phương án hợp lý, hợp tình trình Chính phủ. Sau đó, công ty Kiên Tài đã trao trả lại đất cho tỉnh Kiên Giang.Quy hoạch kiểm sóat lũ đồng bằng sông Cửu Long được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 1999. Trong quy hoạch nói rõ chỉ tập trung phát triển 2 vụ lúa Đông Xuân và Hè Thu, không khuyến khích làm vụ 3 vì nhiều rủi ro do lũ về và đất cũng như người nếu khai thác quanh năm sẽ dễ kiệt quệ, làm đê bao sẽ không lấy được phù sa, vệ sinh đồng ruộng vv…Nói cho công bằng, lúa vụ 3 (còn gọi thu Đông) cũng là phát kiến của người dân từ thập niên 80 nhưng chỉ làm ở những nơi chủ động được công tác thủy nông. Nhờ Quyết định 99TTg và dự án quy hoạch kiểm soát lũ, hệ thống thủy lợi, giao thông được hình thành đã làm thay đổi to lớn bộ mặt kinh tế của đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt vùng tứ giác Long Xuyên. ĐBSCL chỉ chiếm 5% diện tích lưu vực sông Mê Công nhưng hàng năm phải hứng chịu toàn bộ lượng nước lũ hơn 400 tỷ m3 từ thượng lưu đổ về để thoát ra biển Đông và một phần ra biển Tây. Lũ ở ĐBSCL ngoài việc mang lại nguồn lợi phù sa, thuỷ sản, vệ sinh đồng ruộng, nhưng gặp những năm lũ lớn như 1996, 2000 đã gây ra tổn thất hàng trăm nhân mạng và phá huỷ các cơ sở hạ tầng. Để kiểm soát lũ ĐBSCL không thể tách rời với các chương trình phòng tránh lũ của các nước ở thượng lưu. Ngoài các biện pháp phi công trình như dự báo lũ, thay đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, ĐBSCL đã có các biện pháp công trình kiểm soát lũ như làm đê bao, bờ bao và hệ thống cống điều tiết lũ. Có thể hiểu đê bao là những đường, đê được xây dựng vững chắc cao hơn mực nước lũ thiết kế nào đó (chẳng hạn mực nước đỉnh lũ năm 2000) để sao cho ở các trận lũ lớn nước không tràn qua. Đê bao thường sử dụng để bảo vệ các khu dân cư tập trung, các khu thị trấn, thị tứ, các khu công nghiệp tập trung và các vùng chuyên canh trồng cây ăn trái. Còn bờ bao là các đường bờ tạm thời với độ cao không vượt quá mực nước lũ tháng tám để khi thu họach xong lúa hè thu thì cho nước lũ tràn vào để lấy phù sa, thêm nguồn thủy sản, thau chua rửa phèn và vệ sinh đồng ruộng. Cho đến nay người dân Đồng bằng đã quen với mùa nước nổi và trong phương châm qui họach, từ Nhà nước tới nhân dân đều đồng tình phải sống chung với lũ, bảo vệ con người và tài sản, né tránh các mặt hại và tận dụng các mặt lợi do lũ mang lại. Đê bao, bờ bao cũng nằm trong các phương châm đó.Đồng bằng sông Cửu Long vừa chịu các tác động của các họat động phát triển ở thượng lưu làm thay đổi chế độ dòng chảy, vừa phải chịu biến đổi của khí hậu gây nên các biến đổi trên biển như nước dâng, xâm nhập mặn, ô nhiễm nước biển do đất liền và khai thác ngòai biển.. Một số các họat động ở thượng lưu có thể gây ra biến đổi dòng chảy đã được nhắc tới trong các báo cáo của các nhà nghiên thuộc đòan JICA của Nhật Bản như: xây dựng các đập thủy điện Manwan, Dachaosan ở Trung quốc, mở rộng các nhà máy thủy điện Nam ngum, Huay Ho, Nam Leuk ở Lào, mở rộng phát triển nông nghiệp ở Nong Khai, Nakong Phanom, Mukdakhan, Ubon ở Tháilan,... Hồ Tonle Sap ở Căm pu chia có vai trò đặc biệt quan trọng trong điều tiết cả dòng chảy mùa lũ và mùa cạn đối với Đồng bằng. Về mùa lũ , Biển hồ như vùng trữ nước tạo nên vùng đệm giữ nước làm giảm ngập lụt, và về mùa cạn xả thêm nước xuống Đồng bằng góp phần giảm xâm nhập mặn. Một ví dụ về vai trò điều tiết của hồ Tonle Sap là trận lũ 2000, do có hai đỉnh lũ và với đỉnh thứ nhất hồ đã đầy, đến khi xẩy ra đỉnh thứ hai hồ không còn chỗ chứa, tòan bộ nước lũ từ thượng lưu chảy hết về Đồng bằng gây ra trận lũ lịch sử như chúng ta đã biết. Từ đó một câu hỏi được đặt ra là điều gì sẽ xẩy ra cho Đồng bằng nếu chế độ dòng chảy ở thượng lưu cũng như hồ Tonle Sap thay đổi do các họat động phát triển. Trên thực tế đã có một số dự án, chẳng hạn dự án quy họach lũ châu thổ sông Mê kông do Hàn quốc tài trợ qua Ủy hội sông Mê kông, nghiên cứu về sự thay đổi chế độ dòng chảy khi mở các đường thóat lũ ở phía bắc sông Mê kông trên đất Căm pu chia xuất phát từ Kompong Cham tới hồ Tonle Sap, đường thóat lũ (có thể lấy nước phát triển thủy lợi) từ Niek Lương tới đầu sông Vàm Cỏ, đường thóat lũ từ Cămpuchia qua giữa Đồng Tháp Mười tới sông Tiền. Những tính tóan thủy lực cho thấy mực nước lũ tại Cần Thơ có thể cao hơn gần một mét.Từ những phân tích trên, để thích ứng với sự biến đổi do các họat động phát triển ở thượng lưu, sự biến đổi do thay đổi khí hậu tòan cầu, và chủ động phát triển bền vững cho Đồng bằng cần phải có các chiến lược khôn khéo, mà đê bao và bờ bao là một trong các chiến lược đó. Phải bảo vệ triệt để các khu dân cư tập trung, các khu công nghiệp, đồng thời phải lợi dụng được lũ lấy phù sa, tăng nguồn thủy sản, vệ sinh đồng ruộng. Đê bao nhằm bảo vệ các khu dân cư, công nghiệp, còn bờ bao chỉ bảo vệ lúa hè thu cho tới tháng tám lại cho nước lũ vào đồng lấy phù sa và vệ sinh đồng ruộng. Đó là một chiến lược khôn khéo vừa phù hợp với chiến lược chung của cả lưu vực vừa đáp ứng được yêu cầu bảo vệ dân sinh, phát triển sản xuất đặc biệt là cây lúa trong vùng ngập lũ. Tuy nhiên, từ thực tế của các vùng bao triệt để như Chợ mới, vùng Thọai sơn của An giang cũng vẫn phải có hệ thống cống để điều tiết lũ. Những năm đầu trồng lúa cho sản lượng cao nhưng nhưng giảm dần do đất không có phù sa bồi bổ. Vì thế, tỉnh và huyện đã có chương trình rất khôn ngoan là đa dạng hoá cây trồng vật nuôi, kết hợp mở cống lấy phù sa, lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo chứ không phải chỉ riêng cho trồng lúa. Đối với vùng Đồng Tháp Mười, các nhà nghiên cứu Nhật bản trong đòan Jica khuyên rằng nên có sự luân phiên trong canh tác để có thể cho đất có thời ký “nghỉ” và cho lũ vào lấy phù sa tăng độ phì cho đất. Mỗi họat động do con người tác động vào tự nhiên đều có mặt lợi và mặt hại. Phát huy tối đa các mặt lợi, giảm thiểu các mặt hại là quyết sách của các nhà quản lý. Trong phương châm đó, với đê bao, bờ bao rõ ràng là biện pháp rất cần thiết để đạt được lợi ích lớn nhất cho cả cộng đồng. Năm 2006, có cuộc tranh luận về đê bao, bờ bao trên diễn đàn của báo Lao Động có nhiều nhà khoa học và người dân tham gia. Để kết luận cho diễn đàn, báo Lao động cử 2 phóng viên do nhà báo Lục Tùng là trưởng đại diện ở ĐBSCL đến tỉnh Vĩnh Long gặp phỏng vấn ông Võ Văn Kiệt. Đọc bản thảo, chưa hài lòng, ông tự tay viết bằng chữ bút bi màu đỏ hơn 2 trang khổ A4 về quan điểm, và đánh giá thực chất của đê bao, bờ bao và sản xuất lúa ở ĐBSCL rồi chuyển trực tiếp cho tôi để chấp bút thành bài báo hoàn chỉnh. Bài viết này, đã đăng trên báo Lao động (bản gốc File kèm theo) cho đến nay vẫn còn mang nguyên tính thời sự. Vài năm gần đây, do số nơi “phá rào” đẩy mạnh việc làm lúa vụ 3, lam đê bao tràn lan số nơi không có trong quy hoạch, Đáng nhẽ phải tuyên truyền ngăn chặn vì “lợi bất cập hại” thì chính quyền địa phương, đặc biệt là Bộ NN&PTNT đã sai lầm chạy theo phong trào tự phát, biến lúa vụ 3 thành chính vụ. Đây là sai lầm, cần phải sửa, không có gì phải bàn cãi. Về các câu hỏi của PGS Thang Văn Phúc, ở Đồng Tháp Mười vẫn có cháy rừng vì vào mùa khô, do cỏ và lá tràm ở những nơi khô ráo, nóng nực dễ bắt lửa, gặp sự bất cẩn của người dân gây nên cháy. Cây ăn quả theo quy hoạch là được trồng ở nơi bao đê chống lũ chính vụ. Những nơi bị ngập, khi nước rút làm chết cây ăn quả do mới chỉ đảm bảo làm đê chống lũ đầu vụ. Nước biển xâm nhập nhanh như vậy vì sao khả năng rửa mặn lại kém đi? Nên hiểu nước biển xâm nhập sâu vào đất liền tức là nguồn nước ngọt từ thượng lưu về bị hạn chế. Trong thành phần nước biển chủ yếu là hàm lượng muối NACl, một phần KCl, muối gốc sunphat vv…Nước ngọt thành phần chủ yếu ion khoáng Na, Ca, Mg vv có tác dụng pha loãng hàm lượng muối biển. Do yếu tố thời tiết ít mưa, chưa kể do quy trình vận hành hồ chứa ở thượng lưu, không đủ lượng nước ngọt để pha loãng nên khả năng rửa mặn kém đi là điều dễ hiểu.
THAM KHẢO
Đê bao Đồng bằng Sông Cửu Long –
Sai lầm “vĩ đại” trong lịch sử cận đại (2)
Đảng Xanh
01/04/2014
(mời xem phần 1 đã đăng trên www.vncold.vn , trang /Web/Content.aspx?distid=3523 )
Cũng như phần đầu, phần 2 này tiếp tục cung cấp cho độc giả nhiều bài viết tập trung làm rõ hậu quả to lớn, lâu dài, ảnh hưởng đến nhiều mặt từ hệ thống “bê bao”, làm lúa vụ 3. Đó chính là những thực tế sống động, khách quan trong suốt 10 năm qua.
Người viết chỉ là kẻ chủ yếu tiếp thu những thông tin, kiến thức đó, tập hợp lại để tiện cho độc giả theo dõi. Ngoài khẳng định mạnh dạn như tựa đề và phần đầu, bài này chỉ đưa thêm vài gợi ý mà các bài báo được dẫn ra có thể chưa nói đến.
Một gợi ý, là với một vấn đề quá lớn liên quan thủy lợi cả một vùng châu thổ mênh mông của đất nước, thiết tưởng nhà nước phải rất cẩn trọng để tiến hành các bước đi đầy đủ xung quanh quyết định của mình. Có thể hình dung nó như sau:
Nghiên cứu/đề xuất => Ra quyết định => Tạo khung pháp lý => Thực hiện => Nghiên cứu tiếp => Tổng kết => Điều chỉnh/Sửa sai
Thế nhưng, nếu như đúng là cần đến quy trình nêu trên, thì đã thấy ngay rất nhiều lỗ hổng khổng lồ. Ví như văn bản quan trọng nhất là Quyết định số 99-TTg của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, ngày 9/2/1996, trong đó nêu ngay đầu tiên việc ra quyết định này là “Theo đề nghị của Bộ trưởng các Bộ: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Giao thông vận tải, Xây dựng, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính”. Vậy thì tất cả các Ủy ban nhân dân các tỉnh của Vùng đồng bằng Sông Cửu Long có “đề nghị” hay không, hay là họ … không thống nhất? Đó là chưa nói tới ông Bộ Tài nguyên Môi trường, chẳng hiểu là do không lường trước tác động môi trường ghê gớm, ảnh hưởng “tài nguyên nước” nghiêm trọng, hay vì “ông ta” không tán thành, mà cũng không thấy có mặt?
Bên cạnh đó, việc chỉ với bản “Quyết định” như thế thôi, để đi tới thực hiện một dự án khổng lồ trong suốt gần 20 năm qua, cũng là một sự lạ. Đồng thời, cũng liên quan tới tính pháp lý, là sau khi ra quyết định, liệu có được những văn bản pháp quy gì để điều chỉnh mọi hành vi liên quan tới các công trình thủy lợi nêu trong quyết định, đặc biệt là “đê bao”?
Thử hình dung, trong suốt gần 20 năm đó, không biết bao nhiêu triệu tỉ đồng từ nhà nước và dân phải bỏ ra cho hệ thống này, nay vẫn chưa nghe được tổng kết, thế mà lại chỉ được điều chỉnh bằng vài văn bản vừa yếu, vừa mơ hồ trong vài nội dung liên quan, như Luật Xây dựng, Luật Đê điều, còn Luật Thủy lợi thì vẫn đang dự thảo từ nhiều năm qua. Trong suốt thời gian đó, có kẻ nào bị xử lý, đi tù trong việc thực hiện đại dự án đó với “đê bao”, “đường giao thông nông thôn”, “Chương trình nông thôn mới” … bằng việc căn cứ vào các văn bản vừa dẫn chưa?
Chính một phần rất quan trọng nêu trên không được nghiêm túc thực hiện, đã và sẽ dẫn tới việc không tính được hiệu quả kinh tế khi phải đầu tư những khoản tiền khổng lồ, xem có thực là “lãi” hay “lỗ”. Riêng về tác động tới môi trường, thiệt hại về thủy sản, đời sống văn hóa biến dạng thì có lẽ chẳng thể tính nổi.
Và, một điều đang canh cánh nhức nhối trong lòng 90 triệu người dân Việt Nam hiện nay, là vấn đề THAM NHŨNG. Với kiểu làm việc nặng về mệnh lệnh chính trị, nhẹ về tính pháp quy và khoa học như vậy, có bao nhiều tỉ đồng đã rơi vào tay những “Nhóm lợi ích”, từ trung ương tới thôn xã, ngay từ những năm còn chưa ai nói tới khái niệm này, và có thể với ngay trong cả những nhà khoa học, nhà báo … tham gia minh họa cho cái quyết định chính trị “vĩ đại” đó.
Một gợi ý nữa, là với cái hệ thống “vĩ đại” đó, đã kéo theo những hệ thống đê bao khác, vĩ đại không kém, buộc phải thực hiện vì hậu quả của “đê bao” nông thôn, để bảo vệ toàn bộ các đô thị liên quan, đang ngày càng mọc lên như nấm. Lại nữa, là toàn bộ các công trình xây dựng trong các đô thị đó đều phải chạy theo đáp ứng với tình trạng lũ, triều dâng lên cao hơn do “đê bao” nông thôn nay đã không thể kiểm soát nổi rồi. Bởi vì đê bao đô thị đương nhiên không đáng tin cậy, không giải quyết kịp tình trạng úng ngập …
Thế rồi như một vòng luẩn quẩn bi hài mang tầm … thiên niên kỷ, các đô thị này tiếp tục chạy đua trong tuyệt vọng, phải xây cho cao hơn nữa đế đối phó với tốc độ lún sụt đặc thù của cả một vùng châu thổ lầy trũng, nền móng yếu, để cuối cùng không có cách nào khác là một hệ thống đê khổng lồ như … Hà Lan.
Tất cả chi phí đó là bao nhiêu, để cho cái mục tiêu hàng đầu, chính yếu là “lúa vụ 3″? (Phải nhấn mạnh lúa vụ 3, bởi vì các mục tiêu khác đều có thể thực hiện theo cách khác, không phải là “đê bao”).
Những gì nêu trên chắc không thể giúp cho thói quen “đổ tại” dễ dàng tái diễn; như bảo là “đê bao”, “lúa vụ 3″ tràn lan gây hậu quả xấu là do nông dân, do địa phương, do bọn tham nhũng, … còn “quyết định” của trên thì luôn đúng đắn, y như tất tật đường lối chính sách của đảng.
—
LUẬT
- Luật Xây dựng (2003). – Luật Đê điều (2006). “c) Quy hoạch đê sông, đê cửa sông, đê bối, đê bao và đê chuyên dùng phải bảo đảm an toàn ứng với mực nước lũ thiết kế và có giải pháp để bảo đảm an toàn đê khi xảy ra lũ lịch sử; phải có sự phối hợp giữa các địa phương trong cùng một lưu vực, không ảnh hưởng đến quy hoạch phòng, chống lũ của tuyến sông có đê và cả hệ thống sông.”
- QUYẾT ĐỊNH VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT KẾ HOẠCH TRIỂN KHAI XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT THỦY LỢI - BỘ TRƯỞNG BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN (8/2/2014). – Dự thảo đề cương: Luật Thủy lợi của Tổng cục Thủy lợi [20/12/12]. – PHÁP LỆNH Khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi của Ủy ban Thường vụ quốc hội (2001).
—
SÁCH, BÁO, ĐỀ TÀI
- Bất cập trong sống chung với lũ ở ĐBSCL (Sài Gòn GP, 21/6/2005). “Cách nay gần 30 năm, bà con nông dân An Giang có sáng kiến đắp đê bao để bảo vệ lúa hè-thu khi mùa nước nổi. Đến giờ, ĐBSCL chằng chịt đê bao, đủ loại, đủ kiểu. Lúa có cách của lúa, vườn có cách của vườn, phố có kiểu của phố, mạnh ai nấy làm, với lý do là bảo vệ mình, lợi cũng có mà thiệt cũng nhiều…”
“Trong khi chưa có một quy hoạch nào về đê bao, thì kế hoạch thủy lợi đến năm 2010 do Bộ NN-PTNT xây dựng, sẽ tiến hành bao đê bảo vệ các thị trấn, thị xã và thành phố như Tam Nông, Hồng Ngự (Đồng Tháp), Long Xuyên, Châu Đốc (An Giang)… đồng thời bao đê bảo vệ vườn cây ăn trái ở Đồng Tháp, Tiền Giang và Vĩnh Long. “
“Hầu hết các nhà khoa học đều cho rằng đê bao triệt để là có hại và hoàn toàn không ủng hộ.”
“Theo nghiên cứu của Thạc sĩ Dương Văn Nhã – Trường ĐH An Giang (công trình nghiên cứu duy nhất về đê bao ở ĐBSCL tính đến thời điểm này), ô nhiễm là vấn đề phức tạp trong khu vực có đê bao triệt để.”
“Câu hỏi đặt ra là tại sao không nghiên cứu kỹ lưỡng và xây dựng quy hoạch khoa học đê bao ở ĐBSCL, trên cơ sở kinh nghiệm và thực tiễn đã qua?”
- NGUYỄN VIẾT THỊNH (ĐH Tiền Giang): Cần xem lại những đê bao ở ĐBSCL (Tuổi trẻ, 21/10/2005). “Điều cần bàn hơn hiện nay là điều kiện tự nhiên vốn rất tốt của đồng bằng sông Cửu Long đã và đang bị bàn tay qui hoạch không hợp lý của con người làm cho méo mó. Con sông vốn hiền lành đang dần trở nên hung dữ vì bị đê bao ngăn chặn…”
“Mô hình nhà nổi (ở khu vực sông La Ngà, Đồng Nai chẳng hạn) cần được xem xét, nghiên cứu áp dụng để thay thế mô hình cụm, tuyến dân cư tránh lũ vốn không hiệu quả, không thực tế như hiện nay.”
- Đồng Tháp: đê bao nuôi muỗi (Tuổi trẻ, 24/10/2005).
- Sách của Văn Nhã Dương: Tác động đê bao đến đời sống kinh tế xã hội và môi trường, NXB Nông nghiệp 2006.
- ThS.NCS.Nguyễn Phú Quỳnh, GS.TSKH. Nguyễn Ân Niên,Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam: Đê Bao đồng bằng sông Cửu Long có tính đến ảnh hưởng của biến đổi khí hậu (climategis.com).
- ĐBSCL: Khuyến cáo nông dân không làm lúa vụ 3 (Sài Gòn GP, 25/7/2007). “… sản xuất liên tục lúa vụ 3 đã gây những tác động xấu đến môi trường; đất bị bạc màu, mầm dịch bệnh đặc biệt là rầy nâu và bệnh vàng lùn xoắn lá luôn tồn tại trên đồng ruộng.”
- Trần Đăng Hồng-Kỹ-sư Canh Nông tại Sài Gòn, MSc và PhD tại Đại Học Reading, Anh Quốc: Thử tìm giải pháp thủy lợi cho đồng bằng Cửu Long: Phần 1. Kinh Nghiệm Hoà Lan (The Netherlands) (vietsciences.free.fr, 27/11/2009). – Phần 2. Kinh nghiệm Mississippi. – Phần 3. Bangladesh. - Phần 4. Kinh nghiệm châu thổ Sông Hồng. - Phần 5. Đồng bằng sông Cửu Long: Môi trường và hệ thống sông rạch thiên nhiên. – Phần 6. Kinh đào và các biện pháp thủy lợi. – Phần 7: Thách thức với lũ lụt. – Phần 8: Thách thức với biển cả. – Phần 9: Đề nghị vài biện pháp.
- VÂN TRƯỜNG: Học kinh nghiệm từ dòng sông Mississippi, Mỹ: Giải cứu lưu vực sông Mekong (Tuổi trẻ, 11/12/2009).
- Chinh Phục – Hồ Hùng: Mêkông, nhìn từ chuyện Mississippi! (Thời báo KTSG, 17/12/2009). “Còn phía hạ lưu, tại ĐBSCL, những năm qua hàng loạt kênh đào để tháo chua, thoát lũ, tưới tiêu, phục vụ giao thông… đã xóa xổ gần hết các rừng tràm trong đất liền; đê bao khép kín chống lũ, ngăn mặn, khai thác đất nuôi tôm… đã làm cho rừng ngập mặn ven biển còn lại rất mỏng. Tình hình này khiến người ta hình dung ngay những gì đã diễn ra ở sông Mississippi trong bốn thập niên vừa qua!”
- Trị thủy Sông Mississippi (Bách khoa tri thức).
- Kỳ tích đê sông Hồng – Kỳ 1: Dời đô và đắp đê (Tuổi trẻ, 26/9/2010). – Kỳ 2: Những trận vỡ đê lịch sử. – Vụ án đê Yên Phụ. – Kỳ 4: Những tranh luận trên đê sông Hồng.
- GSTS Nguyễn Ngọc Trân: GHI NHẬN VỀ HÀ LAN ĐỐI MẶT VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ NƯỚC BIỂN DÂNG 1 (17/1/2011).
- Chiều theo con nước? (RFA, 23/5/2011).
- Từ chiếc nhà phao “sống chung với lụt”… (Tuổi trẻ, 5/10/2011).
- Từ giã đê bao khép kín đồng bằng Cửu Long? (RFA, 5/10/2011). “Hệ thống đê bao khép kín ở đồng bằng sông Cửu Long sau hơn một thập niên triển khai đã cho thấy lợi bất cập hại.“
- Nguyễn Văn Kiền, Giảng viên Đại học An Giang, nghiên cứu sinh về biến đổi khí hậu ở ĐBSCL tại Đại học Quốc gia Úc: Biến đổi khí hậu và phát triển đê bao, bờ bao vùng ĐBSCL (Thời báo KTSG, 15/10/2011). “Thực tế này đặt lại vấn đề nên chăng phát triển đê bao khép kín ồ ạt để sản xuất lúa vụ ba như hiện nay trong viễn cảnh biến đổi khí hậu ở ĐBSCL?”
- NGUYỄN VĂN KIÊN (giảng viên Đại học An Giang, nghiên cứu sinh Đại học Quốc gia Úc): Liệu có nên tăng diện tích đê bao 3 vụ như hiện nay chăng?- Nghĩ về phát triển đê bao đồng bằng sông Cửu Long (Tuổi trẻ, 16/10/2011). “Một trong những động cơ cho việc xây dựng đê bao triệt để là để hình thành những vùng sản xuất lúa vụ 3 nhằm đáp ứng nhu cầu an ninh lương thực và xuất khẩu để cải thiện đời sống nông dân, phục vụ giao thông nông thôn. Hơn 50% sản luợng gạo được xuất khẩu hàng năm là từ ĐBSCL.”
- Mùa nước nổi: xưa và nay (Tuổi trẻ, 18/10/2011). “Làm lúa vụ 3 lời ít hơn hai vụ lúa kia, nếu giá cả bấp bênh có khi còn lỗ vốn. Thêm nữa, khi đắp đê thì trong vùng bao đê sẽ mất đi nguồn cá, đất đai mất nguồn phù sa quý giá. Cỏ dại, sâu bệnh lưu cữu trên đồng làm tăng thêm chi phí cho các vụ lúa sau. Nhưng vì đó là chủ trương của Nhà nước nên dù muốn dù không cũng phải làm theo.”
- Phỏng vấn TS Tô Văn Trường, nguyên Viện trưởng Viện Quy hoạch thủy lợi miền Nam, nguyên chủ nhiệm dự án Quy hoạch kiểm soát lũ ĐBSCL: “Xin đừng gọi là đê bao chống lũ triệt để” (Lao động, 8/12/2011). Phóng viên: “Nhưng liệu đê bao có tách ĐBSCL ra khỏi sông Mekong như đồng bằng sông Hồng đã từng tách khỏi sông Hồng như có nhiều ý kiến cảnh báo?”, “Nhưng thực tế không ít nơi cho thấy đê bao đang là “gánh nặng”?”
- Đề nghị xây dựng đê bao khép kín (Cần Thơ, 22/3/2012). “Cử tri huyện Phong Điền phản ánh, vừa qua C