Trường Đại học Thủy Lợi 55 năm xây dựng và trưởng thành.[24/11/14]

24/11/2014 10:17

13

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦY LỢI

55 NĂM XÂY DỰNG VÀ TRƯỞNG THÀNH

(Báo cáo tại Lễ Kỷ niệm 55 năm thành lập Trường, 18/11/2014)

GS.TS Nguyễn Quang Kim

Hiệu trưởng Đại học Thủy lợi

 

Trong không khí tưng bừng náo nức của hàng triệu trái tim  học sinh, sinh viên trên cả nước hướng về Ngày Nhà giáo Việt nam 20/11, hôm nay Trường Đại học Thủy lợi long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 55 năm ngày thành lập Trường.

Trước hết cho phép tôi thay mặt Đảng ủy, Ban Giám hiệu cùng toàn thể cán bộ, giáo viên, công nhân viên và học viên, sinh viên Nhà trường nhiệt liệt chào mừng và chân thành  cảm ơn sự hiện diện của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các đồng chí đại diện lãnh đạo các Bộ, Ban, ngành trung ương, các quý vị đại biểu trong nước và các vị khách quốc tế, xin nhiệt liệt chào mừng  các thế hệ lãnh đạo, giáo viên, cán bộ công nhân viên qua các thời kỳ, các thế hệ sinh viên đã và đang học tập tại Trường - những người đã công hiến tài năng, tâm huyết và sức lực của mình vì sự  trưởng thành, lớn mạnh của Nhà trường hơn 5 thập kỷ qua đã có mặt đông đủ tại buổi lễ trọng thể ngày hôm nay.

ooo

           

Cách đây vừa tròn 55 năm, ngày 15 tháng 10 năm 1959 Chính phủ đã ra quyết định thành lập Học viện Thủy Lợi - điện lực, tiền thân của Trường Đại học Thủy lợi và Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam ngày nay với ba nhiệm vụ: nghiên cứu khoa học thủy lợi; đào tạo đại học; đào tạo trung cấp kỹ thuật thủy lợi.

Thời kỳ đầu phát triển, giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1965, nhiệm vụ chủ yếu của Nhà trường là xây dựng chương trình, kế hoạch đào tạo, đội ngũ cán bộ giảng dạy, cơ sở vật chất cho giảng dạy. Quy mô tuyển sinh tăng dần năm 1959 từ 40 sinh viên chuyên tu đại học đến năm 1964Trường đã tuyển 300 sinh viên khóa 6 đại học. Chuyên ngành đào tạo đã mở rộng, từ hai ngành thủy nông, thủy công (công trình tổng hợp) tăng lên ba ngành thủy công, thủy nông, thủy văn. Đội ngũ giáo viên thời kỳ đầu có 20 người trong đó có 10 kỹ sư tốt nghiệp Đại học Bách khoa; 7 giáo viên học tại Trung Quốc trở về và 3 giáo viên tốt nghiệp Đại học Sư phạm, đến năm 1964 đã có khoảng 70 cán bộ giảng dạy được phân bổ trong 13 bộ môn.

Bước vào thời kỳ từ năm 1965 đến năm 1975 là thời kỳ phát triển đặc biệt khó khăn của Nhà trường trong điều kiện cả nước có chiến tranh, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh leo thang đánh phá miền Bắc, tiếp tục đưa quân tăng cường chiến tranh xâm lược miền Nam với mức độ ngày càng ác liệt.  Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, chỉ thị 88 TTg của Thủ tướng chính phủ về chuyển hướng công tác giáo dục từ điều kiện thời bình sang thời chiến, từ tập trung đào tạo ở Hà Nội và các thành phố lớn sang sơ tán về các địa phương. Tháng 6/1965, Trường Đại học Thủy Lợi tổ chức một cuộc di chuyển lớn mang tính lịch sử lên vùng núi huyện Lục Nam – Hà Bắc. Thầy trò và cán bộ công nhân viên đã vận chuyển toàn bộ phương tiện, thiết bị, tài liệu và thư viện, bàn ghế máy móc thí nghiệm lên nơi sơ tán, tự làm lấy nhà ở, giảng đường, phòng thí nghiệm, chỗ làm việc ở rải rác trong rừng sâu trải dài hàng chục km cùng các địa danh như Mương Làng, Đồng Man, Ba Gò, Suối Mỡ, Dùm, Bắc Máng, Bãi Viện, Ao Sen. Được sự đùm bọc của nhân dân địa phương, toàn thể cán bộ, giáo viên, sinh viên đã nhanh chóng ổn định giảng dạy và học tập trong điều kiện cực kỳ thiếu thốn và cũng chính từ nơi sơ tán này, Nhà trường đã làm lễ tốt nghiệp Đại học cho các khóa 5, 6, 7 với gần 1000 kỹ sư ra trường tỏa đi khắp mọi miền, mọi chiến trường của Tổ quốc.

            Song song với nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học phục vụ sản xuất trong không khí sôi động, hào hùng của đất nước, Nhà trường đã góp phần trực tiếp vào cuộc chiến đấu chống Mỹ xâm lược. Gần 500 cán bộ, giáo viên, sinh viên thực hiện phong trào “ba sẵn sàng”, gác bút nghiên lên đường nhập ngũ với quyết tâm đánh thắng đế quốc Mỹ. Nhiều chiến sỹ Trường Đại học Thủy Lợi lập công xuất sắc, trở thành chiến sỹ thi đua, dũng sỹ diệt Mỹ, và nêu tấm gương sáng về chủ nghĩa anh hùng cách mạng như anh hùng Trần Văn Xuân, lớp 8Đ. Nhiều người đã hy sinh để lại một phần xương máu nơi chiến trường vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Thời kỳ từ năm 1976 đến năm 1985 là thời kỳ toàn quốc bắt đầu thực hiện những cải cách trong đào tạo của ngành giáo dục đại học, là thời kỳ phát triển khoa học kỹ thuật với quy mô cả nước. Những năm đầu của thập kỳ 80,  trên cơ sở nhận thức đầy đủ công tác thủy lợi với ý nghĩa là một lĩnh vực kỹ thuật “tài nguyên nước” có nhiệm vụ điều tra, đánh giá, quy hoạch, tổ chức khai thác sử dụng tổng hợp, quản lý và bảo vệ tài nguyên nước, nhằm đáp ứng nhu cầu dùng nước của các ngành kinh tế, quốc phòng, dân sinh một cách hợp lý, thống nhất và hiệu quả,  Nhà trường đã có một bước chuyển hướng đúng đắn trong đào tạo, đã sắp xếp tổ chức lại ngành nghề đào tạo theo diện rộng, chuyên môn hóa hợp lý, hình thành nhóm ngành về Kỹ thuật Tài nguyên nước. Đây cũng là thời kỳ công tác nghiên cứu khoa học, phục vụ sản xuất của Trường phát triển mạnh mẽ. Một cuộc hành quân rầm rộ vào mặt trận thủy lợi ở các tỉnh phía Nam. Đầu năm 1976 và những năm tiếp theo sinh viên vừa tốt nghiệp và sinh viên năm cuối của các khóa 13, 14, 15, 16 lên đường vào các tỉnh phía Nam. Thầy vừa giảng dạy vừa nghiên cứu, trò vừa học tập vừa phục vụ sản xuất.. Thầy trò có mặt khắp các vùng từ Tây Nguyên, Nam Trung Bộ đến Đồng bằng Sông Cửu Long và lấy tên là Đoàn ĐH (Đoàn ĐH1 là tiền thân của Cơ sở 2 Đại học Thủy Lợi ngày nay và đoàn ĐH2 nay là Viện đào tạo và khoa học ứng dụng miền Trung của Trường). Sự sáng tạo độc đáo này đã góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, mở rộng địa bàn đào tạo của Trường trong cả nước và là sợi dây nối liền Nhà trường với cơ sở sản xuất, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc về chất, định hướng vững chắc cho việc đào tạo trong lĩnh vực kỹ thuật phát triển tài nguyên nước bao gồm nước mặt, nước ngầm và ven biển. 

ooo

Bước sang giai đoạn từ 1986 đến nay, dưới ánh sáng của đường lối Giáo dục - đào tạo đúng đắn của Đảng và chính sách đổi mới của Nhà nước, đổi mới sự nghiệp giáo dục – đào tạo thích ứng với nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

Thực hiện 3 chương trình hành động của ngành Đại học, Trung học chuyên nghiệp giai đoạn 1987-1990, năm chương trình mục tiêu của kế hoạch 1991-1995, chương trình hành động triển khai thực hiện NQTW2 (khóa 8) về “Định hướng chiến lược phát triển Giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” và đặc biệt là Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP của Chính phủ về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục Đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020, Nhà trường đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, những lúng túng ban đầu để thích nghi với nền kinh tế thị trường, hòa nhập với trào lưu đổi mới. Đây thực sự là thời kỳ đổi mới toàn diện của Nhà trường. Những nỗ lực vượt bậc của tập thể lãnh đạo, cán bộ, công nhân viên Nhà trường đã đem lại cho sự nghiệp đào tạo của Trường những thành tựu to lớn thể hiện trên nhiều lĩnh vực:

Nhà trường đã chủ động hoàn thành xây dựng chiến lược phát triển Trường giai đoạn 2006 - 2020 và tầm nhìn 2030 phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế: Đổi mới cơ bản toàn diện, mang lại cho cán bộ, giáo viên một môi trường thuận lợi, có thể phát huy năng lực, trí tuệ của mình cho sự nghiệp phát triển Nhà trường, tạo cho sinh viên một môi trường học tập, nghiên cứu hiện đại, được trang bị những kỹ năng cần thiết để tiến thân, lập nghiệp, thích ứng nhanh với nền kinh tế thị trường trong xu thế hội nhập quốc tế. Chương trình đào tạo được rút gọn, đào tạo theo học chế tín chỉ, từ 5 năm xuống còn 4,5 năm đối với khối ngành kỹ thuật, công nghệ thông tin; 4 năm đối với khối ngành kinh tế. Nhà trường đổi mới chương trình đào tạo, giáo trình theo tiêu chuẩn của Hoa Kỳ và một số nước tiên tiến khác trên Thế giới. Nhà trường đã tổ chức đào tạo 21 ngành bậc đại học, trong đó có 2 ngành theo chương trình tiên tiến, đào tạo bằng tiếng Anh… phủ kín các lĩnh vực Thủy lợi - Thủy điện, Tài nguyên – Môi trường, phòng chống và giảm nhẹ thiên tai, góp phần vào sự nghiệp phát triển bền vững kinh tế - xã hội của đất nước, có năng lực hội nhập khu vực và quốc tế như trong tuyên bố sứ mệnh của Chiến lược phát triển đề ra.

        Quy mô đào tạo từng bước được mở rộng phù hợp với cơ sở vật chất được đầu tư, đội ngũ giáo viên được bổ sung và đào tạo đồng thời gắn với sự phát triển kinh tế xã hội trong điều kiện mới, mở rộng các địa bàn đào tạo trong toàn quốc.

Chất lượng đào tạo luôn là mối quan tâm, ưu tiên cao nhất. Nhà trường coi chất lượng đào tạo là uy tín, là sự phát triển của Nhà trường. Năng động và tích cực đổi mới nội dung chương trình, ngành nghề đào tạo, đưa ra những biện pháp khuyến khích vật chất, tinh thần đối với các Bộ môn, cá nhân viết giáo trình, đổi mới phương pháp giảng dạy, tham gia nghiên cứu khoa học sinh viên, thi Olimpic toàn quốc các môn học...

Từ năm học 2007-2008, Nhà trường đã thực hiện việc chuyển đổi công tác quản lý đào tạo từ niên chế sang phương thức tín chỉ, đến nay sau 7 năm thực hiện phương thức đào tạo mới,  nhìn chung Nhà trường đã hoàn thành tốt các mục tiêu đề ra, giữ vững ổn định và phát triển. Cùng với những thành tích nổi bật của công tác đào tạo, hoạt động nghiên cứu khoa học, triển khai công nghệ, phục vụ sản xuất của Trường đại học Thủy lợi trong giai đoạn mới có những bước phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng tình hình thực tế yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước nói chung và của ngành Nông nghiệp phát triển nông thôn nói riêng.

Song song với công tác nghiên cứu khoa học, Trường Đại học Thủy lợi đã tiếp tục mở rộng hoạt động sản xuất ở các địa bàn trong toàn quốc. Nhiều Viện, trung tâm nghiên cứu khoa học, các đơn vị hoạt động khoa học công nghệ - PVXS mới lần lượt ra đời. Nhà trường đã ký kết và thực hiện hàng trăm công trình phục vụ sản xuất, rất đa dạng và phong phú, đặc biệt là các đề tài cấp Nhà nước và đề tài trọng điểm cấp Bộ. Hầu hết các đề tài nghiên cứu đều tập trung vào những chương trình trọng điểm của Quốc gia, của ngành, những dự án quan trọng có tính chất lâu dài như vùng đồng bằng sông Cửu Long, vùng đồng bằng sông Hồng, khu vực miền Trung, vùng Tây nguyên, các dự án của WB, ADB đầu tư tại Việt nam. Khoa học công nghệ phục vụ sản xuất đã tạo nên sự gắn kết trực tiếp giữa đào tạo với thực tiễn sản xuất, góp phần nâng cao kỹ năng nghề nghiệp kiến thức thực tế của thầy và trò, sau đó được bổ sung vào giáo trình, giáo án, đồng thời tạo ra nguồn thu bổ sung để đầu tư cho cơ sở vật chất, các điều kiện làm việc và cải thiện một phần đời sống của giáo viên, công nhân viên và sinh viên.

Với mục tiêu trở thành một trong 10 trường Đại học hàng đầu của Việt Nam đào tạo nguồn nhân lực và nghiên cứu khoa học chất lượng cao nhằmtạo dựng được danh hiệu “Đại học Thủy Lợi Việt Nam” có uy tín, quan hệ quốc tế rộng rãi đa phương, đa dạng đủ sức cạnh tranh, hợp tác bình đẳng với các nước trong khu vực cũng như thế giới. Trường đã chủ động thiết lập các quan hệ quốc tế, triển khai các hoạt động hợp tác với các trường đại học, các tổ chức giáo dục, khoa học và công nghệ nước ngoài, ký kết biên bản ghi nhớ chính thức với một số trường đại học tiên tiến trong vùng và thế giới, các hoạt động hợp tác tập trung chủ yếu trong lĩnh vực đào tạo và nghiên cứu khoa học. Qua đó, từng bước hiện đại hóa trong đào tạo, xây dựng trang bị các phòng thí nghiệm, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, giảng viên về quản lý chuyên môn, tầm nhìn và giao tiếp quốc tế. Cho đến nay, Nhà trường đã có quan hệ trực tiếp với nhiều trường đại học thuộc các nước Âu - Mỹ và các nước trong khu vực. Trường đã tham gia vào mạng lưới của một số tổ chức khu vực và quốc tế (Tổ chức đào tạo với UNESCO-IHE; lưới đào tạo ESCAP v.v…). Trường ĐHTL cũng đã hợp tác giúp CHDCND Lào và Vương quốc Campuchia đào tạo được trên 200 kỹ sư, thạc sĩ và tiến sĩ.

Từ nhận thức đúng đắn: Có đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên, viên chức và nhân viên đủ về lượng, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ là một yếu tố quyết định sự thành công, Nhà trường đã coi trọng công tác xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ viên chức, đặc biệt là đội ngũ giảng viên. Chú trọng toàn diện cả 3 khâu tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng và sử dụng. Sắp xếp lại và thành lập mới một số đơn vị cho phù hợp với tình hình thực tế. Chăm lo công tác tổ chức quy hoạch, xây dựng đội ngũ cán bộ và giảng viên trẻ. Đội ngũ cán bộ quản lý lãnh đạo các cấp của trường hiện nay đã được bổ sung nhiều cán bộ trẻ được đào tạo ở các nước tiến tiến, có trình độ tốt, tỷ lệ cán bộ nữ đã tăng lên so với trước đây. Hiện nay tỷ lệ cán bộ, giảng viên có học vị từ Thạc sỹ trở lên chiếm đến 75%.

Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thực tế phát triển toàn diện, Nhà trường đã có những bước đi thích hợp về xây dựng và cải tạo, nâng cấp, đầu tư trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập tại cả 3 cơ sở đào tạo của Trường: Cơ sở chính tại Hà Nội; Cơ sở 2 tại Thành phố Hồ Chí Minh và Bình Dương; Viện Đào tạo và khoa học ứng dụng miền Trung tại Phan Rang - Ninh Thuận.

Hiện nay Nhà trường đã có một hệ thống giảng đường, thư viện, phòng thí nghiệm, phòng học chuyên dùng, khu giáo dục thể chất và khu làm việc tương đối khang trang với các thiết bị đáp ứng được nhu cầu của một trường Đại học tiên tiến.

Phục vụ cho mục tiêu và kế hoạch hành động triển khai thực hiện thành công Chiến lược phát triển, Nhà trường đang khẩn trương triển khai dự án xây dựng cơ sở mở rộng Trường Đại học Thủy lợi tại Khu Đại học Phố Hiến, tỉnh Hưng Yên. Đây là dự án đặc biệt quan trọng, tạo tiền đề cho Trường trở thành một Trường đại học mang tầm khu vực và quốc tế. Khởi đầu dự án từ năm 2006, đến nay Nhà trường đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng khu đất 57ha; đã hoàn thành hạng mục san nền sơ bộ và bắt đầu thi công hạng mục hạ tầng của dự án. Dự kiến Dự án sẽ hoàn thành xây dựng và đưa vào sử dụng từ năm học 2016-2017.

Bên cạnh đó, hoạt động của các tổ chức đoàn thể trong Trường cũng được quan tâm xây dựng lớn mạnh về nhiều mặt, phối hợp chặt chẽ và hiệu quả với chính quyền hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, góp phần không nhỏ vào thành công chung qua các phong trào, các cuộc vận động thiết thực, sâu rộng trong đội ngũ cán bộ viên chức cũng như trong sinh viên toàn trường. Công đoàn trường luôn phát huy tốt vai trò là người chăm lo đời sống, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động. Chú trọng xây dựng tổ chức công đoàn, bồi dưỡng, giới thiệu các đoàn viên ưu tú cho Đảng. Đoàn thanh niên và Hội sinh viên Nhà trường nhiều năm liên tục được nhận danh hiệu là đơn vị xuất sắc của thành đoàn, Hội sinh viên Thành phố Hà Nội và của Trung ương đoàn – Trung ương Hội sinh viên Việt Nam. Các hoạt động ngoại khoá, phong trào văn hoá văn nghệ  thể thao, các hoạt động xã hội do Đoàn thanh niên phát động và triển khai đã xây dựng nên một môi trường văn hoá lành mạnh, hỗ trợ đắc lực trong việc đào tạo nhân cách người sinh viên.

Công tác thi đua khen thưởng của Nhà trường đã đi vào nề nếp, các phong trào thi đua được duy trì thường xuyên hàng năm. Nhiều Giáo viên, cán bộ, công nhân viên và tập thể đơn vị trong Trường đã vinh dự được tặng thưởng các danh hiệu cao quý của Đảng, Nhà nước và Chính phủ. Qua từng thời kỳ phát triển, Tập thể Nhà trường đã vinh dự đón nhận đầy đủ các Huân chương cao quý nhất: danh hiệu Đơn vị Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới (năm 2000) và Huân chương Hồ Chí Minh (năm 2004).

ooo

 

Nhìn lại thực tiễn 50 năm xây dựng và phát triển, Nhà trường đã đúc kết được một số bài học kinh nghiệm quý báu, làm cơ sở cho những chặng đường phát triển của những năm sắp tới. Những bài học đó là:

1. Kiên trì và nhất quán với nguyên lý phương châm giáo dục của Đảng và Nhà nước: “Học đi đôi với hành, giảng dạy gắn liền với thực tiễn sản xuất, Nhà trường gắn liền với xã hội”. Coi đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ quá trình hoạt động của Nhà trường qua từng thời kỳ. Vận dụng sáng tạo và linh hoạt trong mỗi thời kỳ lịch sử với những yêu cầu cụ thể và trong những điều kiện cụ thể.

2. Luôn giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trên cơ sở bảo đảm hạt nhân lãnh đạo của Đảng uỷ, sự quản lý điều hành tập trung thống nhất của Ban Giám hiệu và phát huy đầy đủ quyền làm chủ của mọi thành viên trong trường thông qua sự phối hợp chặt chẽ với các tổ chức Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội Cựu chiến binh, Hội sinh viên… Thực hiện dân chủ hoá đi đôi với kỷ cương; công bằng cả về quyền lợi và nghĩa vụ.

3.  Đổi mới phải đúng hướng, phù hợp với quy luật phát triển, trên cơ sở tổng kết hoạt động thực tiễn, đảm bảo tính kế thừa. Kịp thời phát hiện và khắc phục những tồn tại phát sinh trong quá trình triển khai.

4. Hợp tác là một tất yếu, hợp tác song phương với các trường Đại học trong và ngoài nước với nhiều hình thức đa dạng, đồng thời phải coi trọng việc bồi dưỡng và phát huy nội lực để vươn tới sự bình đẳng trong hợp tác.

Những thành quả đạt được trên chặng đường đã qua thật to lớn, thật đáng trân trọng, là niềm cổ vũ, động viên rất lớn đối với toàn thể thầy và trò Nhà trường, tuy nhiên phía trước, trên con đường dẫn đến vinh quang chắc chắn còn rất nhiều khó khăn  và thách thức. Từ diễn đàn này, tôi kêu gọi toàn Trường hãy phát huy những thành tựu đã đạt được và với  những bài học kinh nghiệm đã được đúc rút, chúng ta cần cố gắng nhiều hơn nữa, quyết tâm nhiều hơn nữa, tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ chính sau đây:

1. Tiếp tục hoàn chỉnh, đổi mới nội dung, chương trình theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, hội nhập với các trường đại học trong nước và quốc tế. Rà soát lại ngành nghề đào tạo đã có, xây dựng thêm các ngành mới để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước,đáp ứng nhu cầu của người học;

2. Phát triển quy mô hợp lý trên cơ sở bảo đảm chất lượng và hiệu quả đào tạo. Đào tạo đa ngành theo diện rộng (đặc biệt quan tâm đến các ngành truyền thống); đẩy mạnh hình thức liên kết đào tạo; 

3. Kiện toàn và phát huy hiệu quả phương thức đào tạo mới  (tín chỉ);  đổi mới mạnh mẽ phương pháp giảng dạy và học tập;  Kiện toàn công tác khảo thí, kiểm định Trường và kiểm định các chương trình đào tạo theo chuẩn khu vực và quốc tế. Thực hiện nghiêm túc chuẩn chất lượng đầu ra của sinh viên tốt nghiệp các ngành của Trường.

4. Đổi mới phương pháp và nâng cao năng lực quản lý và triển khai công tác NCKH, chuyển giao công nghệ. Tăng cường sự hợp tác giữa NCKH với đào tạo,áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến; Đẩy mạnh hoạt động khoa học công nghệ và hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi nguồn lực để tạo ra môi trường giảng dạy, nghiên cứu và học tập ngày càng hiện đại.