Thị trường sữa và mối liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp chế biến.[21/01/15]

20/01/2015 15:56

9

Thị trường sữa và mối

liên kết giữa nông dân với

doanh nghiệp chế biến

Tô Văn Trường

 

Hãy vãn hồi lại cái vốn sống trung hậu cao quý của con dân đất Việt “tương thân, tương ái” , vì đó chính là khả năng “tiêu hóa” thực thụ của quốc gia . Dân là gốc - gốc có vững thì cây mới xum xuê. Đức hạnh là rễ - rễ có sâu có rộng thì mới tiếp nhận đủ dưỡng chất cho cây tồn tại và phát triển. Xã hội là đất, là nước, là ánh sáng, nhiệt độ v.v… thiếu hay thừa thì cây đều không thể tồn tại và phát triển! Hãy chăm lo cho có cội có cành, đức độ là cái vốn vô cùng quý giá của cả ngàn năm, ngàn đời mới gây dựng nên. Đừng để lâm vào cảnh “kiếm củi ba năm, thiêu một giờ”  đặc biệt là phải luôn quan tâm đến cuộc sống của người nông dân, tầng lớp cống hiến nhiều nhất nhưng cũng chịu thiệt thòi nhiều nhất trong xã hội.

Thời gian gần đây, báo chí liên tiếp đưa tin nông dân (xã Phù Đổng huyện Gia Lâm – Hà Nội và xã Tu Tra và Đạ Ròn Huyện Đơn Dương - Lâm Đồng) đổ bỏ sữa vì doanh nghiệp không thu mua trong khi ở các vùng nông thôn, thậm chí ở nhiều đô thị còn rất nhiều trẻ em suy dinh dưỡng và sữa đối với chúng vẫn còn là sản phẩm xa xỉ.

Nguyên nhân của hiện tượng phi lý này là do trước đây khi giá sữa bột nhập khẩu tăng cao (trong suốt cả năm 2013 giá sữa bột nguyên dao động ở mức trên dưới US$5000/tấn) trong khi sản xuất trong nước mới chỉ đáp ứng ¼ nhu cầu về sữa thì để chủ động nguồn nguyên liệu một số doanh nghiệp đã tích cực xúc tiến phát triển đàn bò bằng cách hỗ trợ vốn, kỹ thuật chăn nuôi, tăng giá thu mua sữa tươi nguyên liệu lên đáng kể (hiện dao động trong khoảng trên dưới 14 ngàn đồng/kg) và thu mua hết sữa cho nông dân.

Với sự hỗ trợ kỹ thuật tích cực của doanh nghiệp cùng với giá thu mua sữa tươi nguyên liệu ở mức chấp nhận được nông dân thấy nuôi bò sữa cho thu nhập ổn định nên đã tích cực đầu tư tăng đàn, nâng cao chất lượng đàn bò sữa, chính vì vậy tới nay số lượng đàn bò ở nhiều nơi đã tăng khá mạnh và sản lượng cũng như chất lượng sữa đều tăng cao. Điều này có thể sẽ tiếp diễn một cách êm đẹp nếu như không có chuyện giá sữa bột trên thế giới thời gian qua giảm mạnh và chưa có dấu hiệu phục hồi trong ngắn hạn.  Hiện tại khi giá sữa trên thế giới đã giảm tới hơn 50% so với đầu năm 2014 thì các doanh nghiệp trong nước đã viện đủ mọi lý do để hạn chế thu mua sữa từ nông dân, ví dụ như công suất nhà máy chế biến có hạn, nhu cầu tiêu thụ giảm về mùa đông, nông dân không ký hợp đồng, nông dân lấy cả sữa bên ngoài vào bán vv… Doanh nghiệp thực hiện điều này bắt đầu bằng việc siết chặt hạn mức thu mua sữa, không thu mua sữa thừa và tùy tiện đặt ra qui định hạn mức sữa bình quân của 1 con bò là 16 lít!?

Cần phải nói rằng sữa là một trong số ít ngành có mối quan hệ mật thiết giữa người sản xuất và chế biến. Nông dân không thể và không dám sản xuất sữa nếu không liên kết với doanh nghiệp để tiêu thụ sản phẩm vì lượng tiêu thụ ra bên ngoài là rất nhỏ và không ổn định mà sữa thì phải vắt và bán hàng ngày chứ không thể để dành. Để bán được sữa nông dân phải ký hợp đồng dài hạn với doanh nghiệp trong đó cam kết tuân thủ tất cả các qui định của nhà chế biến không chỉ về chất lượng sữa mà cả về số lượng bò sữa, lượng sữa giao hàng tuần và hàng tháng.

Tuy nhiên, khi mà giá sữa bột nguyên liệu trên thế giới đang cao và doanh nghiệp cần nguồn sữa tươi nguyên liệu để đáp ứng nhu cầu trong nước thì doanh nghiệp bao tiêu toàn bộ sản phẩm mà không kiểm soát gắt gao hạn mức, thế nhưng đến khi giá sữa bột đã giảm sốc thì kinh doanh sữa tươi trở nên kém hấp dẫn so với kinh doanh sữa bột nên các doanh nghiệp bắt đầu tìm cớ để giảm bớt lượng sữa tươi phải mua. Nhưng do đã ký hợp đồng dài hạn với nông dân nên không thể ngay lập tức giảm giá thu mua sữa tươi nguyên liệu, cũng không thể ngừng thu mua sữa cho nông dân đã ký hợp đồng nên các doanh nghiệp chỉ còn cách siết chặt hạn mức dẫn đến tình trạng nông dân phải bán rất rẻ hoặc phải đổ bỏ sữa thừa. Tình hình này nếu không được giải quyết ngay sẽ dẫn đến nguy cơ nông dân bỏ bê không chăm sóc, thậm chí phải bán bò.

 Lưu ý rằng để có thể gây dựng được một đàn bò sữa gồm khoảng 1-2 chục con nông dân cần đến cả chục năm cần mẫn chăm sóc và chắt chiu vốn liếng để đầu tư. Mỗi con bò sữa giống có giá tới 7-8 chục triệu đồng nên nông dân không thể một lúc bỏ ra vài trăm triệu đến cả tỷ đồng để đầu tư. Họ chỉ có thể bắt đầu từ 1-2 con rồi từ từ tuyển chọn và nhân rộng đàn. Việc phát triển và nhân rộng đàn bò sữa trong dân khá khó khăn và cần thời gian nhưng xóa sổ đàn bò thì lại rất dễ như đã từng diễn ra vào nửa đầu của thập niên 2000 khi phong trào chăn nuôi bò sữa phát triển ào ạt theo ý chí của các cấp chính quyền ở nhiều địa phương.

 Thực ra vấn đề này không khó giải quyết. Vấn đề là Chính phủ có muốn vào cuộc để giúp nông dân hay không mà thôi. Hiện ở Việt Nam không phải tất cả các hãng sữa đều tham gia phát triển vùng nguyên liệu sữa trong nước mà chỉ có một số doanh nghiệp tự đầu tư phát triển đàn bò và/hoặc hợp đồng với nông dân phát triển đàn bò sữa. Khi giá sữa bột nhập khẩu giảm mạnh nhưng giá sữa thành phẩm trong nước lại không giảm thì lẽ dĩ nhiên những doanh nghiệp chỉ kinh doanh sữa bột và sữa hoàn nguyên sẽ có lợi hơn những doanh nghiệp có tham gia phát triển vùng nguyên liệu trong nước.

 Như vậy, vấn đề ở đây là sự công bằng trong kinh doanh. Giải quyết được điều này sẽ khiến cho các doanh nghiệp tham gia phát triển vùng nguyên liệu yên tâm tiếp tục đồng hành với nông dân. Biện pháp đơn giản nhất có thể làm ngay lúc này là nâng thuế nhập khẩu sữa bột nguyên liệu và áp dụng hạn ngạch nhập khẩu đối với những doanh nghiệp tham gia phát triển vùng nguyên liệu sữa trong nước. Cụ thể là những doanh nghiệp nào phát triển vùng nguyên liệu sữa trong nước thì được cấp quota nhập khẩu sữa bột với thuế suất thấp còn doanh nghiệp không phát triển vùng nguyên liệu sữa thì phải chịu mức thuế suất thế nhập khẩu cao và hạn mức nhập khẩu được cấp tùy thuộc vào mức độ phát triển vùng nguyên liệu: doanh nghiệp nào có nhiều hợp đồng ký với nông dân thì được cấp hạn mức nhập sữa cao và ngược lại.

 Nói đến việc nâng thuế nhập khẩu sữa bột nguyên liệu sẽ có ý kiến phản đối với lý do sữa là mặt hàng thiết yếu và thuộc diện bình ổn giá, nhưng thực tế cho thấy khi giá sữa nguyên liệu tăng thì doanh nghiệp lập tức tăng giá sữa thành phẩm, tuy nhiên hiện tại khi giá sữa nguyên liệu đã giảm một nửa thì giá sữa thành phẩm vẫn đứng nguyên không nhúc nhích. Người tiêu dùng vẫn phải trả giá cao bất kể sữa nguyên liệu có giảm giá đến thế nào vậy thì hà cớ gì mà Chính phủ không có chính sách để bảo hộ người sản xuất trong nước cũng là để chủ động nguồn cung vì thực tế trong nhiều năm qua cho thấy giá sữa biến động rất thất thường, lúc lên lúc xuống.

Từ 2008 đến nay thị trường sữa toàn cầu đã chứng kiến không phải chỉ 1 lần giá sữa sụt giảm sâu, chính vì vậy việc chủ động một phần nguyên liệu trong nước là điều nên làm nhằm ổn định thị trường đồng thời góp phần tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho cư dân nông thôn.