Hạn mặn năm nay ở miền Tây.[22/02/20]
21/02/2020 14:47
BÁO VNEXPRESS PHỎNG VẤN TIẾN SĨ TÔ VĂN TRƯỜNG CHUYÊN GIA TÀI NGUYÊN NƯỚC VÀ MÔI TRƯỜNG
1.PV - Xin ông cho biết mùa hạn năm nay ở miền Tây có những điểm gì khác so với các năm trước ? (Thời điểm, mức độ)?
TVT: Trước hết cần nắm quy luật khí hậu của sông Mekong và đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Mùa khô của Nam bộ thường từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau (trung bình khoảng 5 tháng). Lượng mưa mùa khô trung bình các nơi chỉ có 3 – 10% tổng lượng mưa năm. Như vậy, mùa khô Nam Bộ nguồn nước mưa gần như không đáng kể. Dùng từ mùa khô hay mùa hạn là nêu lên bản chất khí hậu của Nam Bộ. Do đó, phải biết quy luật của khí hậu Nam bộ thường dùng đúng nghĩa là Hạn-Mặn để nói về nguồn cung cấp nước từ sông. Hạn ở đây cho thấy nước do mưa không có đủ.
Hay nói cách chính xác hơn là lượng mưa mùa khô hàng năm chỉ có 3-10% tổng lượng mưa năm, nên nguồn nước mùa khô chủ yếu là nước trữ lại trong mùa mưa năm trước trong các vùng đất ngập nước, hồ chứa, đất ẩm. nước ngầm và tháo dần ra trong mùa khô. Tuy nhiên, lượng mưa trong mùa mưa năm 2019 thấp hơn bình thường do đó hạn mặn năm 2020 đến sớm và trầm trọng hơn các năm khác.
2 PV: Các nguyên nhân chính gây ra tình trạng này là gì?
TVT: Ngay từ năm 2019, Việt Nam đã nhận thức theo quy luật chung vào những năm El Nino toàn khu vực Đông Nam Á đều ít mưa hơn so với bình thường do “ổ đối lưu gây mưa bị dịch về phía Đông” nhưng tác động mỗi nơi một khác, không hoàn toàn đồng nhất. Hạn hán lịch sử diễn ra ở hầu khắp các nước Đông Nam Á do El Nino, mà ngay ở nước ta, đặc biệt là hạn ở Miền Nam và Miền Trung.
Mùa khô năm 2019 tổng lượng mưa trên các trạm khác nhau trên lưu vực thiếu hụt so với trung bình nhiều năm khoảng 55%. Trong khi đó mùa mưa 2019 thường bắt đầu từ tháng 5, nhưng đến muộn, làm lượng mưa tháng 7 thiếu hụt lên tới 65%, đặc biệt khu vực thượng nguồn Mê Công (bao gồm cả phía Trung Quốc), mưa giảm nhiều và chỉ đạt trung bình 20% so với nhiều năm. Mùa mưa năm 2019 Đồng bằng sông Cửu Long đã phải đối mặt với một mùa lũ rất thấp:
• Lưu lượng tháng 6-7 tại Tân Châu và Châu Đốc chỉ đạt khoảng 30% so với trung bình tháng 6-7 nhiều năm.
• Hầu hết mực nước các kênh mương trong vùng đều sụt giảm nghiêm trọng, do không được tiếp nước từ các sông chính.
• Trên toàn vùng không có mưa, nắng nhiều, lượng bốc hơi cao. Mưa trái mùa trong mùa khô 2019 – 2020 hầu như không xảy ra, ngoại trừ ngày 17/2/2020 có mưa nhưng chủ yếu làm giảm nhiệt độ.
3. PV: Các đập thủy điện trên sông Mekong có tác động như thế nào ?
TVT: Về nguyên lý vận hành, thủy điện tích nước mùa lũ, điều tiết nước mùa khô cho hạ lưu, phía Trung Quốc chỉ có 2 hồ điều tiết nhiều năm Xiaowan và Nuozhadu thì đã vận hành bình thường rồi nên việc đánh giá việc xả nước của các hồ thủy điện cần được cập nhật thường xuyên. Dòng chảy ở Chieng Sen trong đầu mùa lũ 2019 về lưu lượng ở mức thấp hơn dòng chảy trung bình nhiều năm ~ 1800m3/s, và thấp hơn giá trị kiệt lịch sử trong tháng 7 khoảng 400 m3/s. Đặc biệt trong tháng 7, dòng chảy tại Chieng Sen chỉ đạt 2230 m3/s ~ tương ứng với 44% dòng chảy trung bình nhiều năm (thấp hơn dòng chảy trung bình nhiều năm ~ 3200m3/s).
Xin lưu ý: Để đánh giá chính xác mức độ xả nước ở các hồ thượng lưu đến ĐBSCL, không chỉ dựa vào số liệu từ tháng 7 đầu mùa mưa trên dòng chính (bao gồm cả nước xả từ hồ chứa và dòng chảy tự nhiên) mà cần phải có số liệu xả nước của các đập so với các năm trước để phân tích.
4 PV: Những giải pháp giúp giảm thiệt hại do hạn hán gây ra ?
TVT: Ngay từ tháng 7/ 2019, nhờ công tác dự báo và cảnh báo của các nhà khoa học, về khả năng thiếu nguồn nước trầm trọng trong mùa khô 2020, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, Bộ NN &PTNT đã chủ động tính lại cân bằng nước ĐBSCL, bố trí sản xuất cho phù hợp vùng sinh thái, đặc biệt là chuyển thời vụ Đông Xuân sớm hơn 1-2 tháng, hạn chế làm lúa vụ 3 nên thiệt hại về lúa Đông Xuân năm 2020 chỉ bằng 1/12 so với năm 2016.
Một số công trình thủy lợi như cống Thới Bình, Vũng Liêm vv...được hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch, góp phần tích cực vào kiểm soát mặn. Tuy nhiên, đến tháng 3/2020 mới là thời gian đỉnh của hạn mặn, cần phải chủ động không chỉ là nguồn nước cho sản xuất mà cả nước sinh hoạt cho người dân.
Giải pháp ngắn hạn trước mắt, tập trung tiết kiệm nước sinh hoạt và sản xuất một cách hợp lý và có lợi nhất; lấy thêm nước ngầm ở những nơi có thể và thật sự cần thiết. Cần tích lũy nước ngọt tối đa. Cải tạo hệ thống thủy lợi nội đồng để vừa có thể tích nước vừa chủ động tưới tiết kiệm, khi chuyển đổi cần đẩy mạnh logistics.
-Trung hạn và dài hạn, hình thành cho được hệ thống công trình điều khiển mặn từ phía các cửa mặn, và hệ thống công trình điều khiển bẩy triều, đẩy ngọt từ phía các cửa ngọt trong từng con triều trong mùa khô thật chính quy và hiện đại, biến hệ thống lòng kênh rạch ĐBSCL thành “các hồ nước ngọt di động” hoạt động theo nhịp điệu của triều trong mùa khô, đảm bảo phòng chống hạn mặn ổn định qua từng năm trong mọi tình thế (biến đổi khí hậu, cực đoan thời tiết, tác động của hệ thống đập thủy điện và thủy nông thượng nguồn, gia tăng sử dụng nước trong lưu vực,…). Mặt khác phải tích cực tìm các giải pháp phi công trình căn cơ như thay đổi cơ cầu mùa vụ, cây trồng, vật nuôi,.. theo hướng thích nghi, thích ứng, tiết kiệm nước.
Về lâu dài, phải bám sát vào Nghị quyết 120 của Chính phủ về phát triển bền vững ở ĐBSCL, đó là chủ động thích nghi, ưu tiên “xoay trục” sản xuất, trước các biến động từ thượng lưu và biến đổi khí hậu, lấy tài nguyên nước là yếu tố cốt lõi, là cơ sở cho việc hoạch định chiến lược, chính sách và qui hoạch phát triển vùng.
5. PV: Việt Nam nên hợp tác với các nước trong Ủy hội sông Mekong (MRC) và Trung Quốc như thế nào để hạn chế thiệt hại?
TVT: Trước hết cần nhận thức hạn mặn ở ĐBSCL do nhiều nguyên nhân gây ra như biến đổi khí hậu (từ từ), cực đoan thời tiết, khí hậu (ngẫu nhiên cả về không gian, thời gian, cường độ và tần suất), hệ thống đập thủy điện và thủy nông thượng nguồn, gia tăng dùng nước cà lưu vực, môi trường mặt đệm lưu vực bị suy thoái, khai thác tài nguyên quá mức. Do vậy Việt Nam phải giải quyết lấy những vấn đề nội tại của mình, đồng thời cần kết hợp chặt chẽ với các nước trong lưu vực sông Mekong để có kế hoạch khai thác tổng hợp lưu vực sông Mekong tiệm cận dần tối ưu nhằm đều mang lại lợi ích trước mắt và lâu dài cho mỗi nước.
VN là quốc gia ở hạ lưu, luôn kiên trì duy trì sự hợp tác Mekong với các nước thượng lưu là vì lợi ích của chính mình. Trung Quốc tuy chưa tham gia hiệp định MRC của 4 nước ven sông nhưng MRC có hiệp định, đó là cơ sở pháp lý cho các bên hợp tác và đấu tranh với nhau để cân bằng lợi ích/thiệt hại các bên. MRC có hệ thống tài liệu khí tượng thủy văn và các tài liệu cơ bản khác, nhờ thế mà dự báo lũ kiệt và nghiên cứu phát triển có cơ sở đấu tranh với thượng nguồn là Trung Quốc.
MRC đã có nhiều nghiên cứu đánh giá khách quan các tác động tích lũy của toàn bộ 11 đập thủy điện ở hạ lưu sông Mekong nên bây giờ ai cũng hiểu rõ quốc gia nào được gì và mất gì. Nhờ có hợp tác MRC, diễn đàn chính thức để các nước ven sông có tiếng nói chung vì quyền lợi của các nước theo nguyên tắc quản lý lưu vực sông.
PV Việt Anh thực hiện