Mấy nhận xét về bài «Tình trạng thiếu nước ngọt và sự cần thiết bể chứa ở Đồng Bằng Sông Cửu Long (M.Hồ Tá Khanh)».[30/12/2020]
30/12/2020 15:29
Mấy nhận xét về bài «Tình trạng thiếu nước ngọt và sự cần thiết bể chứa ơ
̉ Đồng Bằng Sông Cửu Long (M.Hồ Tá Khanh)»
Báo cáo trình bày rõ ràng vấn đề then chốt tập trung vào nhu cầu nước ngọt và nhấn mạnh tương lai có thể xảy ra của hai giải pháp khá mới: Xây dựng các hồ chứa lớn ngoài sông và các hồ chứa lớn ven biển; do đó các giải pháp này được bình luận bên dưới.
1) Các hồ chứa lớn ngoài sông
Bốn câu hỏi dường như quan trọng nhất đó là: các vấn đề kỹ thuật và kinh tế của đê điều, bơm, rò rỉ, tái định cư.
- Do chi phí của các con đê là một phần rất lớn của khoản đầu tư, nên giải pháp này dường như chỉ có hiệu quả về mặt chi phí đối với các dự án có diện tích từ km2 đến hàng chục km2. Độ sâu của hồ chứa và chiều cao của đê có thể sẽ từ 5 đến 15 m và có thể được nâng lên trong nhiều giai đoạn. Dung tích của hồ chứa như vậy có thể ít nhất là 10 hm3 nhưng chi phí cho mỗi m3 nước có thể thấp hơn nhiều đối với các công trình có dung tích 100 hm3, tức là đường kính 3 hoặc 4 km. Đối với đường kính 1 km chứa 8 hm3, chiều dài đê sẽ là 3,1 km; tức là chứa khoảng 250 000 m3 cho 100 m đê. Tỷ lệ này gần với tỷ lệ của hàng chục nghìn đập nhỏ. Chiều dài đê dành cho hồ chứa sâu 10 m sẽ gấp 3 lần đường kính hồ chứa 3 D và trữ lượng khoảng 8 D2.
- Việc thiết kế đê điều có thể được điều chỉnh cho phù hợp với phương pháp và thiết bị thi công. Công việc này có thể gần với các công trình và thiết bị đường cao tốc hơn so với các giải pháp truyền thống cho các công trình xây dựng đập hoặc có thể cụ thể dành riêng cho các hồ chứa này. Tối ưu hóa bằng các thử nghiệm có thể được thực hiện cho các sơ đồ đầu tiên. Quảng cáo từ các nhà thầu có thể hữu ích.
- Thiết bị bơm có thể là thiết bị tiêu chuẩn hiện có và chi phí bơm dường như chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng chi phí. Sử dụng năng lượng gió có thể tiết kiệm chi phí nhưng sử dụng điện hoặc thậm chí nhiên liệu có thể rất được chấp nhận.
- Vấn đề thấm áp dụng cho đê, dưới đê và đáy hồ chứa. Sự rò rỉ qua đáy hồ chứa của các đập truyền thống đã giảm nhiều sau nhiều năm đầu vận hành nhờ sự lắng đọng của các vật liệu hạt nhỏ, do đó vật liệu ở đáy hồ trở nên tốt hơn rất nhiều, tức là độ kín nước tự nhiên rất hiệu quả. Đối với các hồ chứa ngoài sông cũng đạt được hiệu quả tương tự: một giải pháp có thể là thêm vào nước bơm trong những năm đầu một hàm lượng vật liệu hạt nhỏ.
- Việc tái định cư cho hàng chục km2 các hồ chứa ngoài sông là một vấn đề nghiêm trọng. Số lượng nhà bị ngập nước có thể hạn chế nhưng diện tích ruộng canh tác sẽ rất quan trọng. Cần dự kiến một phần đáng kể đầu tư cho việc tái định cư. Vấn đề này nên được so sánh với các vấn đề tái định cư của nhiều đập truyền thống trên sông.
2) Các hồ chứa ven biển thấp
Phần lớn chi phí sẽ là chi phí đê điều trên biển. Có thể nên tách đê chắn sóng được xây dựng trong giai đoạn đầu tiên khỏi đê không thấm nước được xây dựng ở vùng nước lặng.
3) Nhận xét bổ sung
Báo cáo nhấn mạnh khả năng giảm lượng nước trử đáng kể trong các hồ chứa dọc theo các nhánh sông Mekong. Nhưng có thể hữu ích khi xây dựng ở một số nhánh đập đầu nước thấp với các nhà máy bơm để kiểm soát mực nước hoặc điều chỉnh mực nước thêm vài mét. Nó có thể tránh nước mặn và nâng cao mực nước ngọt trong mùa khô để tránh thất thoát nước ngọt trên biển.
F. Lempérière
12/2020
BBT. François Lempérière sinh năm 1926 tại Cherbourg (Pháp). Ông là chuyên gia thủy lợi hàng đầu thế giới với nhiều công trình và những đề xuất sáng tạo. Ông đã nhận những giải thưởng quốc tế lớn về xây dựng thủy lợi và phát triển nguồn nước. Ông đã sang thăm Việt Nam năm 2004 và dự Hội nghị Đập lớn Thế giới tại Hà Nội năm 2010. Đập dâng kiểu phím piano tại Văn Phong (Bình Định) và ngưỡng tràn cầu chì tại Saloon (Bình Thuận) được xây dựng theo ý tưởng và hướng dẫn của ông. Ông luôn quan tâm đến sự phát triển thủy lợi tại Việt Nam.
.
Mời xem toàn văn tiếng Anh tại phần tiếng Anh-Pháp