Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Hồng- sông Thái Bình thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050
11/03/2025 08:22
Tóm tắt Quy hoạch có thể xem tại đây:
Toàn văn Quyết định phê duyệt số 50/QĐ-TTg có thể xem tại đây:
Ý kiến của VNCOLD góp ý cho QH có thể xem tại đây
A. CÁC Ý KIẾN GÓP Ý CHUNG
1. Về Tên: Nên sửa thành “QUY HOẠCH NGÀNH QUỐC GIA ….”cho đúng văn bản Chính phủ giao (QĐ số 995/2018 và 1869/2019 của TTg). Đây là QH ngành, và như vậy dưới nó còn có các Quy hoạch chuyên nghành sẽ phải xây dựng. Và nếu như vậy, trong phân kiến nghị cần xác định những QH chuyên ngành nào cần phải xây dựng.
2. Nếu cho rằng, đây là QH ngành và sẽ còn phải tiếp tục xây dựng các QH chuyên ngành dưới nó thì bản Dự thảo này cần viết gọn lại, tập trung vào các định hướng lớn và cho các vùng kinh tế lớn.
3. Do 2 cơ quan lập, nên trong biểu mẫu trình bày có một số chỗ chưa thống nhất về biểu mẫu, cách phân tích số liệu ( có thể Dự thảo mà Hội nhận được chưa phải là bản chính thức). Sẽ được chỉ ra ở phần sau.
4. Cần thu gọn báo cáo chính, một số bảng biểu nên đưa vào Phụ lục để dễ theo dõi.
B. GÓP Ý CHI TIẾT
I. CĂN CỨ LẬP QUY HOẠCH (trang 1)
- Bổ sung căn cứ pháp lý:
+ Luật Tài nguyên nước: đây là Luật quan trọng;
+ Luật Lâm nghiệp, Luật đất đai, Luật khai thác khoáng sản: Luật có liên quan;
- Một số Chiến lược quan trọng (Thuỷ lợi, PCTT, Nước sạch, …) cần ghi kèm theo Quyết định phê duyệt. Đặc biệt, Nghị quyết 120 về ĐBSCL là định hướng quan trọng cho quy hoạch này.
- Để tăng thuyết phục cho các số liệu đưa vào, cần dẫn thêm một số căn cứ/kết quả của các đề tài nghiên cứu, dự án sản xuất (mặc dù trong thuyết minh một vài chỗ đã dẫn nguồn).
II. Sự cần thiết lập quy hoạch (trang 2)
Trang 3 viết: “…. một số loại hình thiên tai khác đã được quy định tại Luật Phòng, chống thiên tai chưa được lập quy hoạch”: thiên tai thì lập QH thế nào được? cần diễn đạt lại cho chính xác.
Về thách thức, Dự thảo nêu mấy vấn đề như:
+ Nguồn nước có sự biến động mạnh, BĐKH ….
+ Công nghiệp hoá, đô thị hoá ….
+ Đối tượng phục vụ thay đổi …
+ Nguồn vốn đầu tư lớn trong khi nguồn lực hạn chế …. Vì vậy phải sắp xếp ưu tiên …
Ý kiến bình luận về thách thức: Dự thảo viết đoạn này còn chung chung, chưa bám sát vào kết quả/số liệu tính toán trình bày trong Quy hoạch. Ví dụ:
+ Theo số liệu trong dự thảo, đến năm 2050, nhu cầu dùng nước sẽ gây thiếu hụt khoảng 7,5 tỷ m3, rơi vào vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và ĐBSCL. Các vùng khác không thiếu hoặc thiếu không nhiều. Vì vậy, khi đánh giá về nguồn nước không nên nêu chung toàn quốc. Điều đặc biệt, vùng ĐBSCL không phải là thiếu nguồn nước mà là giải pháp (CT-phi CT) để cân bằng nước.
+ Điều quan trọng nhất, như Dự thảo đã nêu nhưng cần nhấn mạnh là các quy hoạch trước đây chưa tích hợp các quy hoạch chuyên ngành khác (như giao thông bộ, giao thông thuỷ, khai thác cát, bố trí dân cư, …) và ngay trong ngành nông nghiệp (trồng lúa, nuôi trồng thuỷ sản, quy hoạch tỉnh-huyện….) cũng chắp vá, thiếu tính tổng thể và đặc biệt là chưa dựa trên quan điểm quy hoạch theo lưu vực sông (nặng về QH theo địa giới hành chính). Chúng tôi cho rằng, đây là mục tiêu quan trọng nhất của Quy hoạch này, nó khác biệt với các quy hoạch trước đây là ở chỗ này. Dự thảo cũng nói đến rồi, nhưng chưa nổi bật.
+ Thách thức trong tương lai còn có vấn đề mâu thuẫn, cạnh tranh về nguồn nước. Nó đã diễn ra rồi và sẽ căng thẳng trong tương lai. Nghiên cứu của WB cho thấy, nông nghiệp (trồng lúa) sử dụng nước nhiều nhất, cần phải giảm nhưng giảm như thế nào, căn cứ pháp lý nào (An ninh lương thực đến đâu, NQ 120 và còn gì nữa….) ? Thất thoát trong tưới lúa cũng là lớn nhất, cần phải giảm (SCNC, công nghệ tưới, thu phí,…). Dự thảo cũng đã đề cập trong tính toán các yếu tố trên, nhưng cần nêu lên ngay trong phần viết về thách thức để người đọc tiếp cận.
+ Với vấn đề PCTT: Dự thảo viết “Đối tượng phục vụ của hệ thống công trình thủy lợi, hạ tầng phòng, chống thiên tai đang có sự thay đổi tại nhiều địa phương, trong khi phần lớn công trình được xây dựng theo các quy hoạch trước đây chủ yếu tập trung cho cây lúa, dữ liệu đầu vào chưa cập nhật kịp thời sự thay đổi nhu cầu nước của các ngành, của phát triển thượng nguồn….” e rằng chưa đủ và chưa đúng. Dẫn chứng các ví dụ sau:
- Để bao phủ diện tích tưới, chúng ta đã xây dựng trên 4000 hồ chứa nhỏ. Nhưng với tình hình BĐKH + công tác quản lý thì chính những đập này đang là thách thức về an toàn (rủi ro liên quan đến nước);
- Cho tới nay, chúng ta chưa có “quy hoạch tích hợp PCTL” hay gọi là “quy hoạch công trình PCTT” (tạm gọi như vậy, vì không thể nói quy hoạch phòng chống thiên tai).
- Các công trình phòng chống thiên tai (trừ hệ thống đê sông vùng Bắc Bộ và Trung Bộ) đã có từ trước) vừa qua còn thiên về “chống đỡ” nhiều hơn là chủ động giảm thiểu, chưa tích hợp đa mục tiêu. Riêng về QH ĐBSCL còn có nhiều quan điểm khác nhau, thiếu sự phối hợp trong xây dựng các tuyến đê kết hợp giao thông, các khu dân cư tập trung/phân tán, …
- Một số quan điểm mới, tình hình mới đã được thể hiện trong các chủ trương lớn được thực hiện trong thời gian qua cần thể hiện trong quy hoạch nên được nêu ngắn gọn trong ý này. Ví dụ: quy hoạch các vùng phân lũ, chậm lũ, kiểm soát mặn, chống sạt lở bờ biển, .. còn chi tiết thì nêu trong báo cáo ở phần sau.
Vì vậy, kiến nghị viết ý này như sau: Hiện nay quy hoạch công trình thuỷ lợi và quy hoạch các ngành khác chưa hoàn toàn tích hợp với quy hoạch công trình phòng chống thiên tai. Áp lực phát triển kinh tế và hạ tầng đang và sẽ tạo ra mâu thuẫn, xung đột trong phát triển và ứng phó BĐKH. Quy hoạch các ngành kinh tế khác phải tính đến phòng chống giảm nhẹ thiên tai và BĐKH theo quy định tài Điều … Luật Phòng chống thiên tai.
Về cách tiếp cận
Tiếp cận trong đề xuất giải pháp: đề nghị chỉnh sửa bổ sung thêm ý trong Tiếp cận tổng hợp: các giải pháp đề xuất mang tính tổng hợp: công trình và phi công trình, đầu tư xây dựng nhưng chú trọng đến quản lý khai thác, hoàn thiện thể thể chế và năng cao năg lực quản trị.