Ngập lụt Thành phố Huế, thực trạng và giải pháp [Ý kiến chuyên gia]
17/11/2025 11:13
NGẬP LỤT HUẾ- Ý kiến chuyên gia
Trước hết tôi xin trân Trọng cảm ơn các Chuyên gia ở Hội Đập lớn (HDL), Đại Học Thủy Lợi: GS TS Lê Kim Truyền Nguyên Hiệu Trưởng Đại học Thủy lợi Hà Nội, GS TS Nguyễn Quốc Dũng Chủ Tịch Hội đập lớn, TS Nguyễn Trí Trinh nguyên Phó Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Tư vấn Điện 3, EVN, Ths Văn Phú Chính nguyên Cục trưởng cục phòng chống thiên tai Bộ NN&PTNN cùng các hội viên HDL, các đồng nghiệp các tỉnh bạn đã góp ý chân thành giúp tôi hoàn thiện thêm các kiến nghị phương án quy hoạch chống ngập lụt cho Huế.
Trong bài viết sau đây tôi xin trình bày thêm về Ngập lụt ở Huế trước khi có hệ thống 3 hồ chứa nước lớn đầu nguồn Sông Hương. Bài viết cũng đề xuất các biện pháp công trình có thể giúp Huế giảm nhẹ thiên tai trong mùa mưa lũ. (bài viết có dẫn trích một số số liệu có trong bài viết của GS TS Nguyễn Quốc Dũng về “Hiệu quả cắt giảm lũ do vận hành hồ chứa lưu vực Sông Hương, tồn tại và đề xuất giải pháp cải thiện”
I. Tình hình ngập lụt Huế:
Nhìn lại từ thời xa xưa các vị Vua triều Nguyễn đã chọn nơi xây dựng Hoàng thành Huế ở phía Bắc Sông Hương. Nhìn kỹ lại diện mạo của Huế xưa với với hệ thống sông ngòi tự nhiên và sông Nhân tạo ta có thể hình dung được việc quy hoạch Kinh thành Huế của Triều Nguyễn:
I.1. Việc lựa chọn vị trí xây dựng Hoàng Thành Huế nằm phía Bắc Sông Hương kẹp giữa Sông Hương và Sông Bồ là rất hợp lý để giảm thiểu thiệt hại trong mùa lũ. Khi lũ về thì nước cả Sông Hương và Sông Bồ đều dâng cao tràn bờ gây ngập. Tuy nhiên, vùng Kinh thành Huế và các vùng dân cư phụ cận Bắc Sông Hương và Nam Sông Bồ (thuộc Huyện Hương Trà Cũ) chỉ bị ngập chứ không bị dòng chảy lũ quét qua, nếu có dòng chảy cũng nhẹ vì mực nước Sông Hương, Sông Bồ dâng lên khá đều.
I.2. Phía Đông Thành Huế (thường hay được gọi tên đô thị Nam Sông Hương) Triều Nguyễn chỉ bố trí một vài công trình như là các điểm nhấn đô thị mà không bố trí khu dân cư. Nhằm thoát lũ nhanh kết hợp dẫn thủy nhập điền cho phát triễn Nông nghiệp hệ thống 3 con sông đào đã được hình thành (Sông An Cựu, Sông Như Ý và Sông Phổ Lợi). Tóm lại Hướng Đông (chính xác hơn là Đông Đông Nam) là hướng phát triển nông nghiệp và giữ nguyên địa hình thấp góp phần cùng hệ thống Sông Hương thoát lũ.
I.3. Tình hình lũ khi chưa có các hồ chứa nước thủy lợi Thủy Điện thương lưu.
Trước năm 1975 đặc điểm lưu vực đầu nguồn Sông Hương và Sông Bồ có khác nhiều so với hiện nay. Trước đây tầng phủ thực vật và diện tích rừng đầu nguồn khá dày. Mật độ rừng nguyên sinh lớn và bị giảm dần theo thời gian do tác động nhiều vì chiến tranh, việc khai thác chưa kiểm soát hết, bố trí khu dân cư mới… Nói chung nó bao gồm nguyên nhân khách quan và chủ quan nhưng đều do tác động của con người làm suy kiệt thảm phủ rừng đầu nguồn.
Từ thời Triều Nguyễn cho đến những năm trước chiến tranh Huế hàng năm vẫn bị ngập lụt. Lũ Sông Hương cũng đã đi vào thơ ca từ ngày xưa “… Trời rằng Trời hành cơn lụt mỗi năm ơi à, à ơi…” (trich trong bài hát Tiếng Sông Hương của Cố Nhạc sỹ Phạm Đình Chương 1950). Tuy nhiên, ngày xưa lũ khác bây giờ. Lũ xưa thường lên chậm do suy giảm dòng chảy tập trung vì tầng phủ thực vật rừng đầu nguồn dày. Lũ cũng rút nhanh vì Khu Đông thành Huế ít có dân cư và ngoài Sông Hương thoát lũ thẳng ra cửa Thuận An cùng cả 03 con sông đào đều dẫn thoát lũ thẳng ra hướng Đông Huế ra Hệ Đầm phá Tam giang – Cầu Hai. Lượng mưa bình quân năm chúng tôi có được thời người Pháp quan trắc (từ năm 1905 – 1935) chỉ 2830mm nhỏ hơn so với lượng mưa hiện nay khoảng 2900mm.
Lớp phủ thực vật dày ngày xưa cũng tạo cho Sông Hương có dòng chảy mùa kiệt cao hơn và vì thế tình hình nhiễm mặn Sông Hương cũng ít hơn nhiều. Mùa kiệt nước nhiễm mặn chỉ lên quá ngã ba Sình khoảng 1km. Trong thời kỳ chiến tranh rừng đầu nguồn bị tàn phá nặng làm thay đổi dòng chảy mùa kiệt nên tình hình nhiễm mặn ngày càng cao hơn nhiều có nhiều năm nguồn nước nhiễm mặn (nước không sử dụng được cho tưới nông nghiệp) lên quá cầu Bạch Thổ.
Năm 1917 Người Pháp đã xây dựng đập Ngăn mặn trên sông Như ý (Đập đá) ở cao trình 1,5m. Ở Cao trình khoảng 1,5 m Đập Đá vừa có thể ngăn mặn, kết hợp giao thông và cũng một phần thoát lũ quan Sông Như Ý. Đến Năm 1985 do tình hình nhiễm mặn Sông Hương Nhà nước đã đầu tư xây dựng đập La Ỷ Ngăn Sông Phổ Lợi, Trên sông An cựu cũng có công trình ngăn mặn gần ga Huế. Như vậy cả 03 có sông đào từ thời Triều Nguyễn có nhiệm vụ thoát lũ đều có các hạng mục công trình ngăn mặn này làm thu hẹp dòng chảy lũ.
|
Như vậy qua phân tích ở trên có thể tóm lược lại từ xa xưa cho đến khi chưa có các hồ chứa lớn trên đầu nguồn thì Huế hằng năm vẫn bị ngập lụt. Tuy nhiên, lũ lên chậm hơn, mức lũ có thể thấp hơn và sức tàn phá vì thế cũng ít hơn. Nguyên nhân chính là rừng đầu nguồn có tầng thực bì dày, diện tích rừng lớn hơn nhiều và lượng mưa có phần ít hơn; 3 con sông đào khi chưa có các hạng mục công trình ngăn mặn có nhiệm vụ tiêu thoát lũ tốt; Các công trình kiến trúc đô thị Phía Đông ít nên lũ tiêu thoát nhanh hơn.
I.4. Tình hình Lũ sau khi có 03 hồ chứa lớn đầu nguồn:
Trong bài viết trước đã đề cập đến đặc điểm nhiệm vụ của 03 hồ chứa đầu nguồn.
Trong mùa lũ, lũ kép lịch sử năm nay 2025, mặc dù đội ngũ vận hành cho cả 03 hồ chứa đã chấp hành tốt lệnh vận hành của Thành Phố và đã phát huy đáng kể khả năng cắt lũ, kiểm soát một phần lũ hạ du. Tuy nhiên, trong cả 3 hồ chứa này nếu được đầu tư thêm hệ thống cảnh báo đặc biệt để cảnh báo mưa trên lưu vực đầy đủ hơn để bộ phận Tư vấn tiếp nhận, xử lý thông tin và đề xuất lịch trình vận hành cho mỗi hồ chi tiết thì Công tác vận hành mới đạt tối ưu.
Phần tiếp sau đây chỉ đề cập đến công tác vận hành liên hồ (VHLH), một số hạng mục cần đầu tư bổ sung nhằm làm tăng hiệu quả phòng lũ, cắt lũ hạ du:
+ Hồ Tả Trạch
Theo phân tích chuyên đề tại bài viết “Hiệu quả cắt giảm lũ do vận hành hồ chứa lưu vực Sông Hương…” của GS TS Nguyễn Quốc Dũng chủ tịch Hội đập lớn thì đối với Hồ Tả Trạch do kích thước cửa van và thiết bị cơ khí đóng mở có thiết kế chưa phù hợp. Vì thế trong vận hành chưa tận dụng tối đa dung tich phòng lũ của hồ chứa. Cần có giải pháp đầu tư điều chỉnh kịp thời.
Ngoài ra liên quan đến thiết kế Hồ Tả trạch tôi cũng đề nghị thêm khả năng phân lũ qua Sông Phú Bài khi cần thiết cũng nên được xem xét. Việc đầu tư thêm hạng mục này có thể lắp thêm 01 hệ thống van xả sâu để chia nước lũ bớt qua lưu vực sông Phú Bài trong trường hợp cần thiết. Sông Phú Bài cũng thoát lũ ra đầm Thủy Tú thuộc hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai. Đầu tư hạng mục này cũng có thể xem xét làm thêm hạng mục bổ sung một phần nước mùa kiệt cho Hồ Khe Lời (hồ Phú Bài) kết hợp phát điện nhằm tránh lãng phí tài nguyên.
Tuyến phân lũ về Sông Phú Bài
+ Hồ Bình Điền và Hồ Hương Điền
Cả 2 hồ chứa này thì nhiệm vụ thiết kế không có dung tích phòng lũ. Tuy nhiên, qua nhiều năm lũ lớn cũng chủ động tuân thủ theo Quy trình vận hành của Tỉnh (thành phố Huế) để có kết quả vận hành liên hồ tốt nhằm cắt lũ cho hạ du. Riêng Hồ chứa Hương Điền ở thượng nguồn có các trạm thủy điện A lưới, AlinB1, AlinB2, Rào Trăng 3 và Rào Trăng 4. Các trạm thủy điện này có đặc điểm vận hành chung là lấy nước chuyển lưu vực phía Tây Trường sơn từ Sông A Sáp, và Sông Alin trên địa bàn Huyện A Lưới. Khi lũ về thì dòng chảy về chuyển về sông chính chảy về sông Xê Kong (Lào) nhánh cấp 3 của hệ thống Sông Mê Kong không gây lũ cho Sông Bồ. Tuy nhiên có sự khác biệt trong mùa lũ các trạm thủy điện AlinB1, AlinB2, Rào Trăng và Rào Trăng 4 trong thiết kế lấy nước cả Tây Trường Sơn và 1 phần của Đông Trường Sơn thuộc lưu vực Sông Bồ. Mùa lũ các trạm này chỉ lấy nước của lưu vực Sông Bồ là đủ phát điện. Riêng Thủy điện A Lưới vẫn lấy nước phát điện từ lưu vực Sông A Sáp (Tây Trường Sơn) với lưu lượng khoảng 45m3/s và đổ vào hồ Hương Điền. Lưu lượng phát điện của thủy điện A Lưới quá nhỏ so với lưu lượng lũ đến hồ chứa thủy điện Hương Điền nên trong quy trình vận hành hồ chứa đã bỏ qua.
Cũng như Hồ Tả Trạch, 2 hồ thủy điện này vẫn đang thiếu hệ thống cảnh báo mưa sớm vì thế cũng chưa tối ưu hóa được quy trình vận hành.
II. Các giải pháp đề xuất
Như đã phân tích ở trên và kết quả là: khi có các hồ điều tiết lũ và khi chưa có các hồ điều tiết này thì Huế vẫn ngập lụt hàng năm gây tổn thất lớn. Vậy cần làm gì thêm để giảm thiểu thiệt hại do tình trạng ngập lụt gây ra. Qua việc phân tích và đánh giá của nhiều chuyên gia chuyên ngành trong và ngoài nước tôi xin góp ý đề xuất một số giải pháp trước mắt và lâu dài sau đây:
II.1. Đầu tư sớm hệ thống cảnh báo mưa sớm để có đủ thông tin sớm về lũ ít nhất 24 giờ để có cơ sở Vận hành liên hồ chứa tối ưu.
II.2. Đầu tư bổ sung các hạng mục tại Hồ chứa Tả Trạch bao gồm thiết bị cơ khí phù hợp để nâng cửa cao trình đỉnh van cung đến cao trình 50m nhằm tăng khả năng phòng lũ thêm hơn 100 triệu m3; Nghiên cứu đầu tư bổ sung hệ thống phân lũ qua lưu vực Sông Phú Bài để có thể kết hợp xả lũ trong trường hợp cần thiết.
II.3. Nghiên cứu vận hành liên hồ chứa mùa kiệt đảm bảo dòng chảy kiệt trên sông Hương và Sông Bồ đủ yêu cầu dùng nước của sinh hoạt, nông nghiệp và các nhu cầu cần thiết khác. Kết hợp quy trình vận hành đóng mở hệ thống cửa van ngăn mặn Thảo Long tốt. Từng bước tháo bỏ các hạng mục công trình thu hẹp dòng chảy tại các sông nhánh (sông An Cựu, Sông NHư Ý và Sông Phổ Lợi).
II.4. Chỉnh trị 1 nhánh sông Bồ tăng khả năng thoát lũ ra phá Tam Giang.
II.5. Nghiên cứu chủ trương đầu tư hồ chứa trên Sông Ô Lâu về góc độ phòng lũ, Hồ chứa trên sông Ô Lâu cũng có thể kết hợp vận hành với 3 hồ chứa đầu nguồn sông Hương làm giảm lũ hạ du vì tất cả nguồn nước hình thành và gây lũ đều đổ ra phá Tam Gang trước khi chảy ra biển.
II.6. Quản lý quy hoạch phát triễn đô thị Nam Sông Hương ưu tiên đầu tư các công trình hạ tầng thoát nước phải đi trước một bước. Quản lý tốt cao trình san nền bảo đảm đủ hành lang thoát lũ tràn.
Thực tế thấy rõ các hạng mục công trình đang xây dựng (ví dụ như tuyến Quốc lộ 49) gần như vuông góc chắn ngang hướng thoát lũ, các cầu bắc qua các sông An Cựu, sông Như ý và sông Phổ Lợi trên tuyến đường này đều quá nhỏ so với yêu cầu thoát lũ, vì thế nên tiếp tục rà soát, nghiên cứu đầu tư thêm một số cầu cạn nhằm có đủ khẩu diện thoát lũ.
II.7. Đầu tư mới hạng mục dẫn thoát lũ mới.
Hạng mục đầu tư thoát lũ theo hướng mới chỉ là ý tưởng tôi đưa ra xin ý kiến các chuyên gia cùng đóng góp xây dựng xem liệu khả thi hay không, vì trong các đồ án quy hoạch chưa có chủ trương này. Hạng mục đề xuất bao gồm: kênh dẫn; mỏ hàn, hầm thoát lũ chảy có áp và kênh dẫn ra (kèm theo bản đồ bố trí dự kiến hướng thoát lũ)
Từ thượng nguồn sông Hương khoảng từ Ngã 3 Tuần đến Điện Hòn chén lựa chọn mặt bằng đủ để đào tuyến kênh dẫn vào với khối lượng đào không quá lớn, không ảnh hưởng đến các di tích lịch sử. Hướng dẫn vào theo hướng Đông nếu mặt bằng khả thi thì càng lấn sâu theo hướng Đông càng tốt. Kết thúc kênh dẫn vào là đào nhiều hầm tuy nel song song cũng theo hướng Đông ra Quốc lộ 1 A. Chiều dài mỗi hầm tuy nel khoảng từ 2 đến 2,5km. Tiếp theo cửa ra của hầm dẫn Tuy nel là kênh dẫn ra băng qua đường sắt, đường Quốc lộ 1A băng qua cánh đồng Thanh Lam rồi đổ ra đầm Sam thuộc hệ Đầm phá Tam Giang- Cầu Hai. ảnh
Để kiểm soát được khả năng thoát nước 2 bờ sông Hương sau vị trí kênh dẫn vào có thể đầu tư 2 mỏ hàn điều chỉnh được (mũi nhô ngầm dưới lòng sông) để kiểm soát mức nước thượng lưu kênh dẫn vào.
Một số thông số khả thi dự kiến của Phương án:
Lấy được mực nước thượng lưu cao với mức bình quân của các con lũ kép như năm nay mức nước thượng lưu kênh dẫn vào có thể cao hơn mức nước kênh dẫn ra (mức nước lũ tại Khu vực cánh đồng Thanh Lam) từ 5 đến 7m khá thuận lợi để khống chế vận tốc dòng chảy có áp trong hầm dẫn từ 9 đến 11m/s, Khả năng dẫn nước tối ưu của hầm dẫn bọc Bê tông.
Tổng mặt cắt ngang các hầm tuy nel khoảng 250m2 thì khả năng dẫn thoát lũ tương đương với lòng dẫn Sông Hương hiện tại với mức nước cận tràn bờ tương đương mực nước ở mức lũ báo động 2. Khi lắp đặt thêm 2 mỏ hàn ở 2 bờ Sông Hương thì khả năng làm dềnh mực nước thượng lưu kênh dẫn vào, hiệu quả thoát lũ còn khả quan hơn. Để có được tổng mặt cắt các Tuy nel 250 m2 có thể đầu tư 05 hầm song song đường kính hầm 8 m. Với khẩu độ hầm này thì hiện nay có nhiều loại thiết bị đào hầm TBM kết hợp gia cố tự động bằng tấm ghép bê tông nên với khối lượng công việc như phương án này có thể dùng thiết bị TBM thực hiện nhanh được.
Hạng mục công trình thực hiện không ảnh hưởng đến hoặc thay đổi tiêu cực diện mạo của Thành phố. Thi công ít ảnh hưởng môi trường. khối lượng đất đá thải có thể kết hợp san nền…
Như vậy khi có phương án hỗ trợ phân lũ này thì khi Lũ Sông Hương chảy qua ngã 3 Tuần được chia làm 2 phần tương đương rồi cũng chảy ra Đầm phá Tam Giang – Cầu Hai. Xem như thành phố Huế có 2 con sông chính thoát lũ.
Những hạn chế của phương án phân lũ này:
Vốn đầu tư lớn, thời gian thực hiện dài, phải giải phóng mặt bằng nhiều, mất nhiều quỹ đất nông nghiệp phía kênh dẫn ra.
Về kỹ thuật cần có thời gian khảo sát, kỹ tính toán kết cấu thủy lực phức tạp, đòi hỏi phải xây dựng mô hình lũ khi có phương án phân lũ này cho cả vùng hạ du để đánh giá hiệu quả phân lũ, cắt lũ.
Nhiều độc giả hỏi tôi liệu có phương án nào để cắt lũ để Huế không còn lũ lớn như hiện nay không, câu trả lời của tôi là: “May ra có phương án đầu tư hầm dẫn lũ này thôi”
Huế, ngày 16/11/2025
Kỹ sư thủy lợi: Đỗ Thanh Lâm
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn quý các chuyên gia, quý độc giả đã xem và gửi ý kiến đóng xây dựng. Rất mong tiếp tục nhận được ý kiến đóng góp chân thành của Quý vị.