Suy thoái tài nguyên nước lưu vực sông ở Việt Nam, nguyên nhân và giải pháp [5/10/07]

04/10/2007 23:11

10


SUY THOÁI TÀI NGUYÊN NƯỚC LƯU VỰC SÔNG
Ở VIỆT NAM, NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP

 

NGUYỄN TIẾN ĐẠT

Hội đập lớn Việt Nam


     Suy thoái tài nguyên nước trên lưu vực sông (LVS) được biểu hiện ở sự giảm sút về số lượng và đặc biệt là chất lượng.

Trong những năm qua, sự tăng nhanh về dân số và khai thác quá mức tài nguyên nước, các tài nguyên đất và rừng đã làm suy kiệt nguồn nước; việc phát triển đô thị và công nghiệp nhưng không có biện pháp quản lý chặt chẽ và xử lý các chất thải lỏng, thải rắn theo yêu cầu cũng đã làm ô nhiễm nguồn nước, cho nên suy thoái đã trở thành khá phổ biến đối với các LVS, vì vậy Việt Nam đã được quốc tế xếp vào loại các quốc gia có tài nguyên nước suy thoái.

Trước yêu cầu sử dụng nước còn tiếp tục gia tăng trong khi tài nguyên nước thì ngày càng bị suy thoái nên cần phân tích rõ các nguyên nhân, đặc biệt là các nguyên nhân về quản lý để có các giải pháp nhằm ngăn chặn và giảm thiểu sự suy thoái đang phát triển nghiêm trọng này.

I - NGUYÊN NHÂN SUY THOÁI TÀI NGUYÊN NƯỚC LVS Ở VIỆT NAM

Có 5 nguyên nhân chính dẫn đến suy thoái tài nguyên nước LVS ở Việt Nam:

1. Do gia tăng nhanh về dân số.

2. Do khai thác quá mức tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan đến nước như đất, rừng khiến tài nguyên nước bị suy kiệt. Ngoài ra, các hồ thủy điện lớn khi vận hành chỉ nhằm phục vụ cho phát điện cũng gây cạn kiệt dòng chảy cho hạ lưu.

·       Theo khuyến cáo của UNEP, WRI... thì ngưỡng khai thác TNN chỉ nên giới hạn trong phạm vi 30% của dòng chảy, nhưng ở Việt Nam có nhiều nơi như miền Trung, Đông Nam Bộ, Tây Nguyên... đã khai thác trên 50% lượng dòng chảy về mùa kiệt, đặc biệt là ở Ninh Thuận, Bình Thuận đã khai thác tới 70-80% lượng dòng chảy về mùa kiệt.

·       Nhiều nơi do khai phá rừng và đất, đặc biệt là đất đốc, rừng đầu nguồn đã làm suy kiệt dòng chảy. Sự suy giảm lưu lượng về mùa kiệt tới 50% của một số đập dâng như Liễn Sơn, Đồng Cam và nhiều nơi khác so với thiết kế ban đầu là do hậu quả của khai thác quá mức rừng và đất đã minh chứng rõ cho điều này.

·       Mực nước của một số sông như sông Hồng những năm gần đây thấp nhiều so với những năm trước đây ngoài nguyên nhân suy giảm lượng mưa còn do việc vận hành của các hồ Hòa Bình và các hồ loại vừa và lớn ở thượng nguồn thuộc đất Trung Quốc. Trong tương lai khi 3 đập lớn của Trung Quốc xây dựng trên thượng nguồn sông Đà như đập Long Mạ cao 140m, đập Japudu cao 95m và đập Gelantan cao 113m(1) đi vào vận hành với mục đích chính là phát điện thì ngay cả thủy điện Sơn La và Hòa Bình cũng bị ảnh hưởng do chế độ vận hành của các hồ này.

3. Do chưa kiểm soát được các nguồn thải và chưa quan tâm đầu tư thỏa đáng cho các hệ thống thu gom, xử lý các chất thải lỏng, thải rắn.

·       Những năm qua và những năm sắp tới, tốc độ đô thị hóa, công nghiệp hóa, làng nghề thủ công ngày càng mở rộng, lượng chất thải rắn, thải lỏng chưa kiểm soát được thải vào nguồn nước sẽ gây ô nhiễm suy thoái nhanh các nguồn nước mặt, nước dưới đất, làm gia tăng tình trạng thiếu nước và ô nhiễm nước, nhất là về mùa khô, điển hình nhất là ở sông Nhuệ, sông Thị Vải (tại 15 cây số sau Nhà máy bột ngọt Vedan) của sông thị Vải, dòng sông ở đây thực sự đã chết, nước sông trở nên đen ngòm và hôi thối, không có sinh vật nào sống được; các sông nội đô của nhiều thành phố đã trở thành các cống hở dẫn nước đen ngòm có mùi khó chịu.

·       Việc gia tăng sử dụng phân hóa học, thuốc trừ sâu, giệt cỏ trong thâm canh lúa và các vườn cây cùng việc nuôi trồng thủy sản, giết mổ gia súc, chế biến các sản phẩm nông nghiệp cũng làm ô nhiễm thêm các nguồn nước mặt, nước dưới đất.

·       Ô nhiễm nước ở các LVS đang gia tăng nhưng việc quản lý lại chưa đáp ứng về mặt tổ chức, về năng lực, trang thiết bị, chế tài quản lý và thiếu nguồn kinh phí để xử lý... nên nguy cơ ô nhiễm còn có thể mở rộng, điều này đang gây phá hủy các nguồn nước sạch quý hiếm mà sau này muốn phục hồi sẽ rất tốn kém.

4. Do tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu.

Khí hậu toàn cầu đang nóng lên đã và sẽ tác động nhiều đến tài nguyên nước. Nhiều dự báo trên thế giới và ở trong nước đã cho thấy khi nhiệt độ không khí tăng bình quân 1,50 thì tổng lượng dòng chảy có thể giảm khoảng 5%. Ngoài ra khi trái đất nóng lên, băng tan nhiều hơn sẽ làm nước biển dâng cao, mặn sẽ xâm nhập sâu hơn ở những vùng đồng bằng thấp khiến nguồn nước ngọt phân bổ trên các sông chảy ra biển sẽ bị đẩy lùi dần. Tất cả những điều đó sẽ làm suy thoái thêm nguồn nước, khiến không có đủ nguồn nước ngọt để phục vụ cho sản xuất đời sống.

5. Do những nguyên nhân về quản lý.

Trên thế giới khi đánh giá về nguyên nhân suy thoái tài nguyên nước đã nhận định là quản lý có vai trò chi phối và có tác động rất lớn.

Trong quản lý chúng ta còn có nhiều tồn tại về mặt tổ chức, về quy hoạch và thể chế quản lý.

·       Ở các nước phát triển nhờ có quản lý tốt nên mặc dù tài nguyên nước của họ không dồi dào, thậm chí còn rất nghèo như Đức chỉ có 1301 m3/người, Anh: 2465 m3/người, Pháp: 3047 m3/người, Nhật: 3393 m3/người. Ở các nước này công nghiệp rất phát triển, đô thị rất đông đúc nhưng do sử dụng tốt các công cụ về pháp lý, tổ chức và kinh tế nên tài nguyên nước của họ không hề bị suy thoái, những nơi bị suy thoái đã được khôi phục.

·       Ở Việt Nam tuy mới công nghiệp hóa và mở rộng các đô thị nhưng ô nhiễm nước và suy thoái nước đã phát triển rất nhanh, thậm chí đã đến mức báo động cũng là do chúng ta có những tồn tại lớn trong quản lý về mặt tổ chức, về quy hoạch, chính sách, cụ thể là:

a. Về tổ chức: Chưa tạo ra tổ chức ổn định ở cấp Bộ và tổ chức có hiệu lực ở cấp lưu vực sông để quản lý loại tài nguyên khó quản này.

·  Về quản lý ở Trung ương (cấp Bộ): Đã để việc tách - nhập; và quản lý phân tán kéo dài.

·  Về quản lý ở cấp LVS: Do tồn tại của Luật tài nguyên nước không đề cập đến quản lý LVS mà chỉ nói đến lập Ban Quản lý quy hoạch LVS như một đơn vị sự nghiệp của Bộ Nông nghiệp & PTNT nên hiệu lực các ban quản lý lập ra bị hạn chế.

·  Năm 2002 khi thành lập Bộ Tài nguyên & Môi trường: Điều 1 của Nghị định 91 nêu: "Bộ Tài nguyên & Môi trường là cơ quan Chính phủ quản lý nhà nước về TNN..." nhưng các điều sau lại nêu không đầy đủ các nhiệm vụ và cả lực lượng chuyên môn để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về TNN, tại Nghị định 86 lại giao nhiệm vụ quản lý LVS cho Bộ Nông nghiệp & PTNT nên tình trạng chồng chéo phân tán vẫn tiếp diễn. Gần đây  (15-3-07) Văn phòng Chính phủ đã có thông báo quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc chuyển nhiệm vụ quản lý LVS từ Bộ NN&PTNT về Bộ Tài nguyên & Môi trường để hợp nhất nhiệm vụ quản lý LVS với quản lý TNN cho thống nhất.

Thời gian qua do bị phân tán nên hiệu lực quản lý nhà nước về TNN và quản lý LVS ở Việt Nam còn hạn chế mặc dù thời gian qua đã được Nhà nước rất quan tâm và được nhiều tổ chức quốc tế và các nhà tài trợ giúp đỡ.

b. Về quy hoạch:

Trong mấy chục năm qua, Nhà nước đã đầu tư nhiều kinh phí cho các Bộ, ngành làm quy hoạch. Nhưng do nội dung lập quy hoạch và sự phối hợp giữa các ngành trên LVS chưa gắn bó nên quy hoạch của các ngành còn nặng về khai thác phục vụ riêng cho chuyên ngành mình, vì vậy đến nay ta vẫn chưa có và trình duyệt được quy hoạch tổng hợp LVS trong đó có quy hoạch bảo vệ tài nguyên nước, quy hoạch thoát và xử lý nước thải, các chất thải (CTR) cho các đô thị, khu công nghiệp, làng nghề thủ công để làm cơ sở cho việc quản lý và đưa quy hoạch bảo vệ này vào kế hoạch thực hiện hàng năm như là thực các hiện quy hoạch phát triển thủy điện, thủy lợi, cấp nước đô thị, công nghiệp...

c. Về chính sách và văn bản liên quan đến quản lý:

Thời gian qua Bộ Tài nguyên & Môi trường, Bộ Nông nghiệp & PTNT và các Bộ liên quan đã xây dựng được nhiều văn bản trong đó có những văn bản rất quan trọng đã được trình Chính phủ ban hành thành Nghị định, trong đó có Nghị định quan trọng như:

Nghị định về cấp phép 149/2004/NĐ-CP, Nghị định về phí nước thải 67/2003/NĐ-CP.

Các Nghị định về thủy lợi phí 112 và 143.

Nhưng một số Nghị định của ta đang đứng trước những khó khăn. Xin đơn cử:

Nghị định phí nước thải:

Có thể chưa lường hết hậu quả của tình hình ô nhiễm sẽ mở rộng nhanh và ngày càng trầm trọng và sợ dân ta còn nghèo nên chưa mạnh dạn tiếp cận với quan điểm của thế giới về phí nước thải. Trước đây, Bộ Xây dựng chỉ đưa vào giá nước mức phụ thu là 10% để phục vụ cho nạo vét của việc thoát nước. Khi xây dựng chính sách phí nước thải sinh hoạt Bộ Tài nguyên & Môi trường cũng chỉ đưa vào một tỷ lệ rất thấp: Nghị định 67 chỉ quy định thu phí nước thải với mức 10% của giá nước trong khi thế giới thu bằng và lớn hơn cả giá nước (như Mỹ thu bằng 135% giá nước, Pháp thu bằng giá nước). Nếu tình trạng thu phí thấp như thế này kéo dài thì không thể tạo ra nguồn tài chính để xử lý nước thải sinh hoạt trong khi ngân sách nhà nước của ta lại không thể có đủ để đầu tư cho xây dựng và vận hành các trạm xử lý nước thải, điều này sẽ khiến nguồn nước ngày càng thêm suy thoái. Tất cả các nước giàu có trên thế giới đều phải thực hiện nguyên tắc PPP (Polluter Pays Principle) để đưa phí ô nhiễm nước lên cao hơn mới có đủ nguồn kinh phí xử lý nước thải.

Nghị định về thủy lợi phí:

Việc thực hiện ở Việt Nam đang đứng trước nguy cơ khó khăn lớn do chủ trương mở rộng miễn giảm và bỏ thủy lợi phí. Trong tình hình nông nghiệp Việt Nam hiện sử dụng trên 80% nhu cầu dùng nước của cả quốc gia và trước thực trạng nhiều công trình thủy nông đang bị xuống cấp và chưa hoàn chỉnh, chưa chuyển giao cho các tổ chức hợp tác xã trên diện rộng thì việc bỏ thủy lợi phí sẽ phải có những điều chỉnh về chính sách và tổ chức quản lý để sao sử dụng tiết kiệm nguồn nước tưới.

d. Một số tồn tại khác:

- Chưa thiết lập được đầy đủ cơ sở dữ liệu, tài liệu cơ bản về TNN, về sử dụng và ô nhiễm để phục vụ cho quản lý và sử dụng chung. Màng lưới quan trắc và các trang thiết bị phục vụ chưa được đầu tư thỏa đáng.

- Trong đào tạo, Việt Nam có nhiều Trường đào tạo cán bộ chuyên môn: riêng Trường Đại học Thủy lợi trong gần 50 năm qua đào tạo được gần 20.000 Kỹ sư, Thạc sỹ, Tiến sỹ. Các Trường Đại học khác như Bách khoa, Xây dựng, Mỏ Địa chất và Cao Đẳng Khí tượng Thủy văn, và cả ở nước ngoài đã đào tạo được rất nhiều cán bộ cho ngành Nước, nhưng do tổ chức ngành Nước không ổn định và việc sử dụng ở Việt Nam có vấn đề chưa tốt nên chúng ta vẫn thực sự thiếu cán bộ để thực hiện nhiệm vụ quản lý và chống suy thoái TNN. Đây là sự lãng phí trong đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực.

- Ngoài ra sự phối hợp liên ngành trong việc quản lý chưa được gắn bó cũng gây ra những lãng phí và hạn chế đến việc khai thác sử dụng tổng hợp nguồn TNN.

II - GIẢI PHÁP GIẢM THIỂU SUY THOÁI TÀI NGUYÊN NƯỚC LƯU VỰC SÔNG

Ở Việt Nam, tháng 4/2006 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược Quốc gia về TNN, trong đó nhiệm vụ về bảo vệ TNN đã được đưa lên hàng đầu, tiếp đó mới là các nhiệm vụ về khai thác sử dụng và phát triển TNN, điều đó nói lên tầm quan trọng của công tác bảo vệ TNN để giảm thiểu suy thoái.

Để bảo vệ và phát triển bền vững nguồn tài nguyên nước, giảm thiểu khó khăn về suy thoái TNN cho các LVS, trong Chiến lược TNN của mình, các quốc gia đều coi trọng các biện pháp công trình và phi công trình (các biện pháp về quản lý).

I. BIỆN PHÁP CÔNG TRÌNH

1. Xây dựng các hồ chứa thượng lưu để điều tiết nguồn nước và vận hành theo quy trình hợp lý đồng thời xây dựng các công trình khai thác lấy nước mặt, nước dưới đất ở trung và hạ lưu các LVS nhằm đáp ứng cho các nhu cầu sử dụng nước và duy trình dòng chảy môi trường; trong điều kiện cần thiết và cho phép thì còn phải xây dựng các công trình chuyển nước lưu vực để giải quyết cho những vùng khan hiếm nước mà các nguồn nước trong lưu vực không đáp ứng được.

Đến nay trên toàn thế giới, các hồ chứa có tổng dung tích điều tiết được 6.000 tỷ m3, chiếm 14% tổng lượng dòng chảy.

Ở Việt Nam tổng dung tích điều tiết của các hồ chứa đã và đang xây dựng cho đến nay đạt gần 30 tỷ m3, chiếm 9% tổng lượng dòng chảy nội địa, số dung tích điều tiết này càng có hiệu quả cao khi được sử dụng tổng hợp.

2. Phát triển các hệ thống thu gom và xử lý các loại chất thải.

Đối với sông nội đô cần tăng cường nạo vét, làm cống hộp lớn để chuyển tải và dẫn thêm nguồn nước sạch ở sông hồ vào nhằm pha loãng và đẩy nguồn nước bẩn này đến những trạm xử lý; Đẩy mạnh việc xây dựng các trạm xử lý; Đẩy mạnh việc xây dựng các trạm xử lý nước thải và CTR tập trung và phân tán.