PHƯƠNG PHÁP TÍNH TOÁN TỐI ƯU PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG ĐIỆN VIỆT NAM CÓ TÍNH ĐẾN ĐẶC ĐIỂM NGUỒN PHÁT VÀ ĐƯỜNG DÂY TRUYỀN TẢI
TS. Ngô Tuấn Kiệt, TS. Vũ Hữu Hải
Hiện nay hệ thống điện Việt Nam đã phát triển tương đối đầy đủ và quy mô ngày càng tăng. Để đảm bảo nhu cầu điện năng cho phát triển kinh tế xã hội hầu như tất cả các nguồn tài nguyên năng lượng của đất nước đã được huy động. Ngoài ra, trong thời gian gần đây hệ thống điện Việt Nam đã có mối liên kết trao đổi điện năng với các nước trong khu vực. Cùng với sự lớn mạnh của HTĐ, những nội dung nghiên cứu tối ưu phát triển HTĐ cũng đã được ngành điện và các nhà khoa học năng lượng trong nước nghiên cứu hoàn thiện cả về phương pháp luận và thuật toán mô hình, phần mềm tính toán. Nhiều chương trình tính toán tối ưu phát triển hệ thống năng lượng nói chung và hệ thống điện nói riêng đã được nhập khẩu [1] như: Dự báo nhu cầu năng lượng: MAED (trong tổ hợp ENPEP); MEDEE-S; DDAS (trong tổ hợp ETB); Cân bằng Cung/Cầu: BALANCE (trong tổ hợp ENPEP); EFOM-ENV; ESPS (trong tổ hợp ETB); và Quy hoạch nguồn điện: WASP (trong tổ hợp ENPEP); ESP (trong tổ hợp ETB) v.v…Điều đáng lưu ý là các chương trình nhập khẩu không cho phép giải quyết những nội dung đặc thù cơ bản của HTĐ Việt Nam, nên kết quả thu được chưa đáp ứng được yêu cầu nên thường phải lấy ý kiến chuyên gia để sử lý và phân tích lựa chọn kết quả.
Từ góc độ khai thác tối ưu, ngoài những đặc điểm chung như ở các nước phát triển, HTĐ Việt Nam có những đặc thù trong giải quyết vấn đề về phương pháp luận tối ưu như sau:
HTĐ toàn quốc với 3 trung tâm phụ tải lớn Bắc-Trung - Nam đã được hợp nhất bằng đường dây truyền tải 500 kV 2 mạch; trọng tâm phụ tải (chiếm 80% phụ tải toàn quốc) lại tập trung ở miền Nam và miền Bắc, cách xa nhau khoảng 2000 km. Cho nên, khi nghiên cứu bài toán tối ưu phát triển và tối ưu vận hành HTĐ trong mô hình tối ưu bắt buộc phải chú ý đến khả năng truyền tải chính giữa các miền.
Nguồn nhiên liệu năng lượng đa dạng, nhưng phân bố không đều: Than ở miền Bắc, dầu khí ở miền Nam, thủy điện tuy phân bố tương đối đều từ Bắc vào Nam, song tập trung chủ yếu trên dòng chính sông Đà (hàng năm có thể cung cấp trên 30 tỷ KWh). Các nguồn thủy điện vừa và nhỏ trong thời gian tới dự định sẽ đưa vào khai thác đồng loạt. Đặc điểm của nguồn thủy điện Việt Nam là có sự chênh lệch khá lớn về khả năng phát điện năng giữa mùa khô với mùa mưa, giữa năm nhiều nước và năm ít nước, có sự lệch pha về mùa giữa các miền; Việc sử dụng hợp lý nguồn năng lượng này sẽ ảnh hưởng lớn đến cấu trúc tối ưu của HTĐ.
Bấm vào đây để xem chi tiết bài viết (PDF;400KB)