NỢ CÔNG - AI CŨNG RẤT LO!!
Tô Văn Trường
Quản lý nợ công không những là một bộ phận hữu cơ trong hoạt động quản lý vĩ mô tổng thể của quốc gia, mà còn là một thành phần của quá trình quản lý và quản trị công. Để quản lý nợ công một cách hữu hiệu, cần có một sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan hữu quan dưới sự điều hành chung một cách hiệu quả của chính phủ. Luật Quản lý nợ công của Việt Nam quy định ba loại: Nợ của chính phủ, nợ của chính quyền địa phương, nợ do chính phủ bảo lãnh và chính phủ phải chịu trách nhiệm. Còn các khoản nợ khác như các khoản nợ riêng của doanh nghiệp, không do chính phủ bảo lãnh, nhiều người kể cả 1 số tổ chức quốc tế gọi là “nợ ngầm”! Đại diện cao cấp Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) tại Việt Nam có lần cảnh báo “các khoản nợ ngầm có thể đánh úp các bạn”.
Theo thiển nghĩ của chúng tôi, không có cái gì có thể gọi là “nợ ngầm”!. Nói chung, khi phân tích thì cơ sở xem xét là trách nhiệm tài chính của nhà nước. Đơn vị dịch vụ nhà nước gồm các đơn vị phi lợi nhuận do nhà nước quản lý, tài trợ và các doanh nghiệp công. Khu vực công gồm dịch vụ nhà nước và doanh nghiệp công. Cái nào được gọi là doanh nghiệp công là dựa trên một số điều kiện, nó có thể là "tư", nhưng nếu như nhà nước có quyền kiểm soát và trách nhiệm bù lỗ nếu cần thì nó cũng phải bị coi là công. Nói nôm na theo ngôn ngữ của người dân, dễ hiểu nhất, nợ công có nghĩa chính phủ là con nợ phải lấy tiền ngân sách, thực chất là tiền thuế của dân đi trả nợ!
Tính đến 31/12/2009, nợ công so với GDP chiếm 52,6%, trong đó nợ Chính phủ chiếm 41,9%, trong khi quy định của Thủ tướng về chỉ tiêu nợ Chính phủ là 50%. Mức dư nợ công năm nay dự kiến lên tới 52,6% GDP, nợ nước ngoài chiếm 38,8% GDP và nợ công sẽ chiếm đến 57% năm 2011 đã cho thấy độ an toàn tài chính quốc gia có nguy cơ sắp vượt ngưỡng cho phép. Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội đề nghị Chính phủ khống chế nợ công không quá 60% GDP năm tới. Vấn đề là nợ công không chỉ dựa trên tỷ lệ GDP mà còn dựa trên khả năng trả nợ. Quy mô của nợ công tăng với tốc độ rất nhanh. Tính trung bình, trong giai đoạn 2001 – 2009, nợ công trên đầu người của VN tăng khoảng 18%/năm, tức là gần gấp 3 tốc độ tăng GDP/đầu người của Việt Nam trong cùng thời kỳ.
Với nhu cầu tiếp tục đầu tư để phát triển, chắc chắn nợ công của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trong nhiều năm tới. Tỷ lệ tiết kiệm nội địa chỉ khoảng 27% GDP trong khi mức đầu tư toàn xã hội mỗi năm khoảng 42% GDP (nguồn vnr500.vietnam.net). Theo chúng tôi hiểu, nguồn để đầu tư theo công bố chính thức không phải 27% mà khoảng 29%. Vấn đề những người làm chính sách cần quan tâm nhất không chỉ là tỷ lệ nợ trên GDP mà là tốc độ tăng nợ hàng năm và tỷ lệ tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế trên vốn đầu tư và tỷ lệ đầu tư trên GDP. Xin lưu ý là tốc độ tăng nợ đối với nước ngoài của Việt Nam ngày càng tăng cao như 4,18% năm 2004, tăng lên 12,66% năm 2005. Đến năm 2006 tăng lên 21,81%, đặc biệt năm 2010 là 34%. Tỷ lệ tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế chiếm trong vốn đầu tư liên tục giảm (từ 87,4% năm 2006 đến năm 2009 còn 68%), trong khi tỷ lệ đầu tư trong GDP không những không giảm mà còn có xu hướng tăng lên ( năm 2009 là 43%). Điều đáng lo ngại hơn nữa là hiệu quả đầu tư thông qua hệ số ICOR ngày một cao, theo tính toán của tác giả Phạm Lê Hoa đăng ở Thời báo kinh tế Sài gòn ngày 02/06/2010 thì hệ số này đã ở mức báo động (ước tính là 14,22 trong năm 2009). Ngày trước, chỉ có Bộ Tài chính mới được đứng ra phát hành trái phiếu, ngày nay có xu hướng ngay cả các tỉnh cũng được làm. Nếu thêm nợ doanh nghiệp nữa thì đây là vấn đề rất lớn.
Hơn nữa, việc chi trả sở hữu khác ở Việt Nam ngày càng nhiều, dẫn đến năng lực nội tại thông qua tỷ lệ để dành là nguồn tạo ra đầu tư trên vốn đầu tư ngày càng nhỏ đi. Theo đánh giá của Nguyễn Quang Thái-Bùi Trinh (VNR500) nếu năm 2006 để dành chiếm trong tổng vốn đầu tư khoảng 87,35% thì đến năm 2009 tỷ lệ này chỉ còn là 67,86%. Phần thiếu hụt ấy lại phải đi vay, và rồi mai sau cũng phải trả cả gốc lẫn lãi. Trong khi đó, thâm hụt ngân sách cả trong và ngoài dự toán tăng từ 2,8% GDP năm 2001 lên tới 9,7% GDP năm 2009 (theo Natixis và các tổ chức quốc tế). Như vậy, trong khi tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế thông qua chỉ tiêu để dành của quốc gia liên tục giảm thì nợ công liên tục tăng, nguồn để đầu tư tăng và ngân sách lại ngày càng trở nên thâm hụt.
Mức thâm hụt ngân sách ở Việt Nam đã vượt xa ngưỡng “báo động đỏ” 5% . Đây là mức còn gây tranh cãi. Thí dụ, theo mức chuẩn của khối EUR, thì thâm hụt ngân sách không được quá 3% GDP mới được xét là thành viên của Khối. Tất nhiên, họ phải trả giá như khủng hoảng nợ công vừa qua vì đã không tuân thủ như vậy theo thông lệ quốc tế, khiến tính bền vững của nợ công càng bị giảm sút.
Thâm hụt ngân sách của Việt Nam so với các nước
Nguồn: Ngân hàng Thế giới, Natixis, UB Ngân sách QH Mỹ (2010). |
Nợ công của Mỹ hiện nay chiếm trên 90% GDP (theo Wiki là 93%). Tuy nhiên, xin lưu ý là trong 93% này thì tới trên 60% là do Bộ tài chính Mỹ phát hành tín/trái phiếu để đầu tư ra nước ngoài, còn 32 % là nợ do sử dụng Quỹ An ninh xã hội (chủ yếu ở dạng quỹ lương hưu của người Mỹ). Như vậy 60% “nợ” được đầu tư và mang lại lợi nhuận cho Chính phủ Mỹ, một phần được sử dụng làm nguồn dự trữ bảo lãnh. Việc nợ Quỹ An ninh xã hội luôn bị người Mỹ ‘xăm soi’ và phản đối kịch liệt, vì thế không thể không minh bạch. Việc đầu tư thị trường mang lại lợi nhuận cho nước Mỹ thường được đầu tư vào các lĩnh vực ít rủi ro hoặc những nghĩa vụ mà nước Mỹ muốn gánh để đảm bảo vị thế của mình. Như vậy, mặc dù hệ số nợ công của Mỹ cao, nhưng được công khai, minh bạch và sử dụng khá hiệu quả, nên cả Chính phủ và người dân cảm thấy an toàn (cho dù giới nghiên cứu vẫn luôn có ý kiến cảnh báo mức nợ công và thâm hụt ngân sách của Mỹ)!
Đối với Việt Nam đáng lo hơn cả là vay nợ nhưng làm ăn kém hiệu quả và khả năng trả nợ ngày càng khó khăn hơn. Nguy cơ đã thấy rõ không giữ nổi tài chính quốc gia trong ngưỡng an toàn. Thiếu hụt ngân sách ngày càng tăng, tỷ lệ chi ngân sách nhà nước thực hiện so với tỷ lệ ngân sách Quốc hội biểu quyết thường cách xa nhau khoảng 20%. Bội chi ngân sách, thâm hụt cán cân thương mại luôn là căn bệnh kinh niên vì tầm nhìn và tư duy nhiệm kỳ của không ít người có trách nhiệm luôn muốn có tỷ lệ tăng GDP cao để khoe khoang thành tích! Bởi vì có đặt mức tăng GDP cao, mới giải quyết được các đòi hỏi đầu tư công ở khắp các địa phương. Bộ máy nhà nước cồng kềnh, ngày càng phình to, tệ nạn lãng phí, tham nhũng thể hiện rõ nhất qua chỉ số ICOR cao ngất ngưởng. Trong khi đó, Quốc hội ở nước ta lại không hành xử như Quốc hội của các nước tiên tiến là phê duyệt từng khoản chi cụ thể thì đương nhiên nhà nước sẽ cứ việc chi thoải mái, rồi chỉ cần báo là vượt chỉ tiêu chi thế thôi! Quốc hội lại chỉ làm việc 2 lần trong 1 năm, phần lớn các đại biểu không chuyên nghiệp, kiêm nhiệm nhiều vai, cho nên nhiều vấn đề quan trọng lại do Ban thường vụ Quốc hội cứ thông qua là xong. Đúng là nỗi lo này chẳng của riêng ai!
Để đất nước phát triển bền vững, bắt buộc phải sửa lại lỗi hệ thống. Ngay từ bây giờ cần phải đặt lại vấn đề xem xét nợ công trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội bền vững, xây dựng cơ chế đánh giá, kiểm tra, kiểm soát các dự án đầu tư của nhà nước phải thực sự có hiệu quả, và khả năng trả nợ cả trung hạn lẫn dài hạn. Tất cả các đối tượng sử dụng nguồn ngân sách tức là tiền thuế của dân, không có “vùng cấm” mà phải được kiểm tra, kiểm toán độc lập theo định kỳ. Người dân cần Quốc hội phải chuyên nghiệp, làm việc toàn thời gian, và có các bộ phận chuyên gia giúp việc để nắm chắc các vấn đề mà kiểm soát Chính phủ. Cần sửa lại Hiến pháp 1992 một cách toàn diện, xây dựng xã hội dân sự, nhà nước pháp quyền, thay đổi mạnh mẽ, quyết liệt trong quản lý chính sách tạo ra các "giá trị bên trong" để có các mô thức mới tiếp tục tăng trưởng kinh tế vững bền, chính là ý Dân - lòng Dân.
Nợ công là vấn đề mang tính toàn cầu, nghĩa là nước nào cũng phải đối mặt. Trong quá trình toàn cầu hóa, nợ công đang trở thành gánh nặng đối với các nước nghèo và có thể là một trong những nguyên nhân gây bất ổn chính trị, ảnh hưởng xấu đến chủ quyền quốc gia. Vậy mà trong chúng ta, vẫn còn nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều nơi, nhiều người bình chân như vại, quen tiêu tiền đi vay như “tiền chùa”! Đã đến lúc phải gióng lên hồi chuông báo động trước thói quen tai hại đó. Bởi nếu không căn cơ, tần tiện, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, không kiểm soát chặt chẽ các tổ chức, cá nhân có vốn vay thì sẽ không chỉ có một mà nhiều Vinashin! Không nói ra, ai cũng hiểu khi không có khả năng trả nợ đó sẽ là thảm họa dân tộc thực sự!
|