» Mở tất cả ra       » Thu tất cả lại
English and French
Tìm kiếm

Bài & Tin mới
Nghị định số 02/2024/NĐ-CP về việc chuyển giao công trình điện là tài sản công sang Tập đoàn Điện lực Việt Nam [17-01-2024]
Kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Cục Quản lý xây dựng công trình [26-12-23]
Chùm ảnh các công trình thuỷ lợi tiêu biểu ở VN 20 năm 2003-2023 [30-11-2023]
Danh mục các quy hoạch thủy lợi đã được phê duyệt [26-10-2023]
BÀN VỀ ĐỊNH HƯỚNG LẠI NGÀNH XÂY DỰNG THÔNG QUA CHUYỂN ĐỔI SỐ [26-10-2023]
Luật Đấu thầu số 22/2023/QH15 thay thế Luật Đấu thầu trước đây và có hiệu lực từ 01/01/2024 [15-10-2023]
Dự thảo TCVN 8731-20xx Phương pháp xã định hệ số thấm của đất bằng phương pháp đổ nước và múc nước trong hố đào và hố khoan [15-10-2023]
Đập Đắk N’Ting (Đắk Nông) trước nguy cơ bị vỡ [05-09-23]
QUYẾT ĐỊNH: Về việc hủy bỏ Tiêu chuẩn quốc gia [05-09-23]
Nghị định 35/2023/NĐ-CP [07-08-23]
Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ ĐỘNG ĐẤT Ở KONTUM NGÀY 14-07-2023 (2)[07-08-23]
HOẠT ĐỘNG HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2023 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM 6 THÁNG CUỔI NĂM [04-08-23]
Đô thị ngoại ô: cuộc chiến đất vùng rìa [25-07-23]
Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt Quy hoạch Phòng chống thiên tai và Thủy lợi 2021-2030 [25-07-23]
Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt Quy hoạch Phòng chống thiên tai và Thủy lợi 2021-2030 [25-07-23]
NHỮNG NỘI DUNG KHÔNG PHÙ HỢP VÀ KHÔNG ĐÚNG trong Tiêu chuẩn TCVN 8637:2021(về Yêu cầu kỹ thuật lắp đặt và nghiệm thu máy bơm)[14-07-23]
Ý kiến trao đổi về động đất ở Kontum [14-07-23]
Tiếp tục xảy ra 7 trận động đất tại Kon Plông (Kon Tum) [14-07-23]
Bàn thêm về dung tích phòng lũ ở các hồ chứa thủy lợi, thủy điện [13-07-23]
 Số phiên truy cập

81284928

 
Nước, Môi trường & Thiên tai
Gửi bài viết này cho bạn bè

Giải pháp tăng cường hiệu quả giảm lũ và phát điện ở các hồ chứa trên lưu vực sông Hương [06-06-2023]
Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Hương được ban hành kèm theo Quyết định số 1606/QĐ-TTg ngày 13/11/2019 của Thủ tướng Chính phủ (sau đây viết tắt là QTVH)...

                                                                             KS. Thủy lợi Nguyễn Anh Tuấn

                                                                     Hội Khoa học kỹ thuật Thủy lợi TP.HCM

 

 

Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Hương được ban hành kèm theo Quyết định số 1606/QĐ-TTg ngày 13/11/2019 của Thủ tướng Chính phủ (sau đây viết tắt là QTVH) quy định nguyên tắc vận hành các hồ chứa nước trong mùa lũ theo thứ tự ưu tiên như sau:

a) Đảm bảo an toàn công trình: Đảm bảo an toàn tuyệt đối cho các công trình hồ chứa, không để mực nước hồ chứa vượt cao trình mực nước lũ kiểm tra với mọi trận lũ có chu kỳ lặp lại nhỏ hơn hoặc bằng lũ kiểm tra của công trình.

b) Góp phần giảm lũ cho hạ du;

c) Đảm bảo hiệu quả cấp nước, phát điện và dòng chảy tối thiểu trên sông”.

Bài viết này bàn về nội dung tăng cường hiệu quả giảm lũ và phát điện ở các hồ chứa trên lưu vực sông Hương trong bối cảnh mới.

1. Đặt vấn đề.

1.1. Điều kiện đảm bảo an toàn tuyệt đối cho công trình.

Theo các quy định hiện hành và tại QTVH, đảm bảo an toàn tuyệt đối cho công trình hồ chứa nước là: “không để mực nước hồ chứa vượt cao trình mực nước lũ kiểm tra với mọi trận lũ có chu kỳ lặp lại nhỏ hơn hoặc bằng lũ kiểm tra của công trình”. Quy định này rất quan trọng nhưng QTVH chưa khai thác hết phạm vi cho phép của nó.

1.2. Về nhiệm vụ góp phần giảm lũ cho hạ du.

Việc thiết kế, xây dựng các đập, hồ chứa nước ở Việt Nam từ trước tới nay, và cả ở trên thế giới mới chỉ đảm bảo an toàn tuyệt đối cho đập, còn đảm bảo an toàn về xả lũ cho vùng hạ du đập với mức nào thì chưa có tiêu chí xác định cụ thể. Vì vậy mà QTVH cũng chỉ đặt vấn đề: “Góp phần giảm lũ cho hạ du”, chưa xác định mức đảm bảo an toàn cụ thể cho vùng hạ du đập. Luật Thủy lợi quan niệm (tại khoản 8 Điều 2): “Vùng hạ du đập là vùng bị ngập lụt khi hồ xả nước theo quy trình; xả lũ trong tình huống khẩn cấp hoặc vỡ đập” nên việc hạ du đập bị ngập do hồ chứa xả lũ theo quy trình được coi là điều bình thường. Nhưng đối chiếu với quan niệm tại Điều 43 của Hiến Pháp: Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường” với diễn giải: Môi trường trong lành là Thừa Thiên Huế không bị đe dọa bởi lũ lụt. Nghĩa vụ bảo vệ môi trường là phải làm cho Thừa Thiên Huế không bị đe dọa bởi lũ lụt thì có vẻ như có gì đó sai sai.

QTVH được ban hành năm giữa tháng 11/2019 trên tinh thần đó của Luật Thủy lợi, đã trải qua thực hiện trong mùa lũ các năm 2020, 2021 và 2022. Trong đó: năm 2020 là “lũ chồng lũ”, nước trên sông Bồ lên tới 5,24m tại Phú Ốc, cao hơn lũ lịch sử (đại hồng thủy 1999) 06cm, trên sông Hương lên tới 4,17m, cao hơn BĐ3 0,67cm; năm 2021 lũ trên sông Bồ max 4,26m, kém BĐ3 24cm, trên sông Hương 1,78m, dưới BĐ2 22cm, nhỏ nhất trong 3 năm; năm 2022 lũ max trên sông Bồ ở mức 5,00m, kém lũ lịch sử 18cm, trên BĐ3 50cm, trên sông Hương max 4,00m, trên BĐ3 50cm. Nhìn chung, việc thực hiện theo QTVH các năm qua tuy có góp phần giảm lũ cho hạ du, nhưng mức độ ngập và thiệt hại về tính mạng và tài sản của dân vẫn còn rất lớn (trung bình 1 năm có 3,5 trận lũ trên báo động cấp 2), đòi hỏi phải có sự cải thiện.

Bối cảnh mới là Nhiệm vụ Quy hoạch chung đô thị Thừa Thiên Huế được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1261QĐ-TTg ngày 19/10/2022 dã yêu cầu cụ thể hơn: Phải “đảm bảo an toàn về lũ, úng”. Bài viết: “Như thế nào là đảm bảo an toàn về lũ, úng cho Thừa Thiên Huế[1] đã trình bày đầy đủ về mặt nguyên lý giải pháp giải quyết vấn đề này với Phương pháp thiết kế xả lũ an toàn cho vùng hạ du đập[2]. Nói cho cùng, “Việc kiểm soát nước mưa không thể làm riêng rẽ, độc lập với việc kiểm soát lũ, kiểm soát triều, vì toàn bộ nước mưa trên vùng đô thị cuối cùng đều phải thoát xuống các bể tiêu là kênh rạch bao quanh[3], sự can thiệp của ngành Thủy lợi vào giải quyết vấn đề biên lũ và biên triều cho bài toán thoát nước đô thị của ngành Xây dựng là cần thiết và không thể thiếu. Quy hoạch thủy lợi chống ngập úng Thành phố Hồ Chí Minh (Quy hoạch 1547) ra đời năm 2008 đã chứng minh điều đó. Năm 2010, Quy hoạch 1547 đã được tiếp thu vào Quy hoạch chung đô thị Thành phố Hồ Chí Minh (Quy hoạch 24), hình thành một tiền lệ về tích hợp quy hoạch thủy lợi chống ngập úng vào quy hoạch chung đô thị. Hiện nay, sau khi Luật Quy hoạch ra đời, Thành phố Hồ Chí Minh đang lập điều chỉnh cả 3 quy hoạch: Quy hoạch tổng thể hệ thống thoát nước Thành phố Hồ Chí Minh (Quy hoạch 752), Quy hoạch 24 và Quy hoạch 1547, trong đó Quy hoạch 1547 sẽ được tích hợp vào Quy hoạch 24 (điều chỉnh) và Quy hoạch 752 (điều chỉnh). 

1.3. Điều kiện đảm bảo hiệu quả cấp nước, phát điện và dòng chảy tối thiểu trên sông trong mùa lũ.     

Nước trong mùa lũ không thiếu nên chủ yếu chỉ cần vận hành bảo đảm an toàn về xả lũ cho hạ du đồng thời tranh thủ phát điện phù hợp là đủ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cấp nước và dòng chảy tối thiểu. Việc giữ nước trong hồ ở ngang Mực nước dâng bình thường (trừ khi có dự báo mưa, lũ) là điều kiện để nâng cao hiệu quả phát điện mùa lũ nhưng lại mâu thuẫn với an toàn phòng lũ là vấn đề cần được nghiên cứu giải quyết.

2. Luận về đập, hồ chứa nước, mực nước đón lũ, dung tích phòng lũ và các vấn đề liên quan QTVH.

2.1. Luận về đập, hồ chứa nước.

Đập và hồ chứa nước là 2 khái niệm cặp đôi với nhau, trong đó đập là cái cố định còn hồ chứa nước là cái phái sinh[4] từ đập, biến đổi theo mực nước hồ.

Việc xây dựng đập chắn nước là nhằm tạo ra dung tích dự trữ lượng nước dư thừa mùa lũ trong hồ chứa để phân phối sử dụng dần cho các mục đích dân sinh kinh tế trong mùa cạn. Dung tích dự trữ tương ứng với Mực nước dâng bình thường (MNDBT)[5] là dung tích hữu ích lớn nhất, ký hiệu là Whi.

Do dung tích hồ chứa bao giờ cũng nhỏ hơn nhiều so với tổng lượng nước đến hồ trong mùa lũ, bất kỳ hồ chứa nào cũng phải có công trình xả lũ nhằm đảm bảo an toàn về ổn định cho đập chắn nước (để không bị nước tràn qua đỉnh, gây vỡ đập), từ đó nảy sinh bài toán điều tiết lũ và các khái niệm Mực nước lớn nhất thiết kế (MNLNTK)[6], Mực nước lớn nhất kiểm tra (MNLNKT)[7]. Các mực nước này đến lượt nó đòi hỏi phải tính toán thiết kế an toàn về ổn định trượt, lật cho đập dâng với MNLNTKMNLNKT. Kết quả là hồ chứa nước bắt buộc phải có thêm dung tích trống từ MNDBT đến MNLNTK, là dung tích phòng lũ nguyên sơ phải có theo thiết kế, cũng là dung tích điều tiết lũ phái sinh.

BẢNG 1. DUNG TÍCH PHÒNG LŨ NGUYÊN SƠ CỦA 03 HỒ CHỨA
(Trích từ Phụ lục II kèm theo Quyết định số 1606/QĐ-TTg, ngày 13/11/2019 của TTCP)

Thứ tự

Cao trình/Đơn vị

Hồ            Bình Điền

Hồ             Tả Trạch

Hồ                    Hương Điền

1

Mực nước dâng bình thường (m)

85

45

58

2

Mực nước thượng lưu khi xả lũ kiểm tra (P=0,1%) MNLNKT (m)

85,96

53,07

59,93

3

Dung tích phòng lũ nguyên sơ tính từ MNLNKT xuống MNDBT (106m3)

17,68

233,22

60,99

4

Lưu lượng đỉnh lũ kiểm tra (m3/s)

6.989

14.200

9.430

5

Lưu lượng xả lũ kiểm tra (m3/s)

4.446

6.147

7.862

6

Bội số của Lưu lượng xả lũ kiểm tra so với Dung tích phòng lũ nguyên sơ

251,47

26,36

128,91

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Dung tích phòng lũ hiện đang được thiết kế mà chưa tính đến mức đảm bảo an toàn cụ thể về xả lũ cho vùng hạ du đập, chưa theo một nguyên tắc thống nhất, rất khác nhau ở mỗi công trình như thể hiện trong bảng trên.

Sự khác biệt nằm ở chênh lệch độ lớn giữa MNLNKT và MNDBT, giữa lưu lượng xả lũ kiểm tra và dung tích phòng lũ nguyên sơ giữa các hồ. Dung tích phòng lũ phía trên MNDBT ở hồ Bình Điền và hồ Hương Điền quá nhỏ, là một bất cập phái sinh từ quy định tại Nghị định 114/2018/NĐ-CP ngày 04/9/2018 của Chính phủ về mục tiêu chính của hồ thủy lợi (kết hợp cắt giảm lũ), của hồ thủy điện (phát điện là chính). Nguyên nhân này đã được đề cập ở bài viết: “Một số bất cập của pháp luật về quản lý, phân công quản lý an toàn đập, hồ chứa nước và quản lý tài nguyên nước ở các hồ chứa nước[8].

2.2. Luận về mực nước đón lũ, dung tích phòng lũ.

Hồ chứa nước nào cũng có hai loại dung tích, một âm một dương: Dung tích chứa (dương) dùng để chứa nước, và dung tích trống (âm) dùng để phòng/chứa lũ và điều tiết giảm lũ. Dung tích trống khi hồ tích đầy nước là từ MNLNKT xuống MNDBT, trên thực tế trong năm là từ MNLNKT xuống bất kỳ mực nước nào dưới nó trong hồ[9] tại thời điểm xem xét.

Do mực nước trong hồ luôn thay đổi nên hồ chứa nước cũng vậy, không cố định. Ở bất kỳ thời điểm nào khi sắp có lũ mực nước hồ cũng vừa hữu ích về cấp nước vừa hữu ích về đón lũ, dung tích trống phía trên mực nước hồ nào (cho đến MNLNKT) cũng là dung tích phòng lũ. Hai dung tích này hợp thành Thái cực đồ của hồ chứa: Nước đến thì dương trưởng âm tiêu, nước đi thi dương tiêu âm trưởng. Vận hành hồ chứa là điều tiết sự tiêu, trưởng tự nhiên đó trong 1 năm, phải “Trông trời, trông đất, trông mưa/Trông mây, trông gió, trông ngày, trông đêm” như quy định tại khoản 4 Điều 5 QTVH: “Trong quá trình vận hành phải thường xuyên theo dõi, cập nhật thông tin về tình hình thời tiết, mưa, lũ; mực nước tại các trạm thủy văn; mực nước, lưu lượng đến hồ và các bản tin dự báo tiếp theo để vận hành, điều tiết hồ cho phù hợp với tình hình thực tế”. Vì vậy, không nên quy định mực nước đón lũ mà phải cung cấp các công cụ hỗ trợ cần thiết để cho người thực hiện căn cứ tình hình thực tế tại thời điểm mà xoay chuyển cục diện sao cho an toàn và có lợi nhất có thể.

Khái niệm MNDBT tưởng chỉ lên quan đến kho nước trong hồ, lại là một đại lượng cơ bản về dung tích phòng lũ: Nguyên tắc vận hành hồ chứa là không giữ nước quá MNDBT (cao nhất bằng MNDBT), bởi vì về yêu cầu sử dụng thì không cần thiết, còn về mặt phòng lũ, đó là cái an toàn tối thiểu phải có. Cho nên, có thể nói MNDBT là cái/mực nước quân bình âm dương ở hồ chứa nước, là cái “dĩ bất biến”, còn lại là “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.

Để phục vụ cho ứng vạn biến, phải có 02 cuốn cẩm nang - công cụ hỗ trợ. Một trong số đó là bảng dung tích phòng lũ ứng với mực nước hồ chứa. Trông nó giống như bảng 2 được lập dưới đây cho các hồ Bình Điền, Tả Trạch, Hương Điền.

Có cuốn cẩm nang - Bảng dung tích phòng lũ này, cùng với cuốn cẩm nang thứ hai - Biểu đồ tương quan lưu lượng và mực nước tại các trạm thủy văn Kim Long, Phú Ốc (trình bày tại mục 3.3 ở dưới) là 2 công cụ hỗ trợ cần có giúp cho người có trách nhiệm căn cứ mực nước trong hồ, mực nước trên sông tại các trạm thủy văn ở hạ lưu đập tại thời điểm, tình hình chuyển biến của thời tiết mà quyết định nên chứa (tạm thời trữ nước để đảm bảo an toàn cho hạ du) hay nên thả (xả lũ để đảm bảo an toàn cho đập), lúc nào chứa, lúc nào thả, thả bao nhiêu, giữ bao nhiêu ….

Những quy định về mực nước cao nhất trước lũ, mực nước thấp nhất đón lũ được đặt ra vốn là để làm công cụ phục vụ cho công tác vận hành điều tiết giảm lũ nhưng trong thực hiện nhiều khi lại như là mục đích của công tác vận hành điều tiết giảm lũ, vì vậy chúng không có ý nghĩa thiết thực bằng 02 công cụ - cẩm nang này.

BẢNG 2. DUNG TÍCH PHÒNG LŨ CỦA CÁC HỒ CHỨA
(Sử dụng Phụ lục II kèm theo Quyết định số 1606/QĐ-TTg, ngày 13/11/2019 của TTCP để tính)

Thứ tự

Cao trình/Đơn vị

Hồ            Bình Điền

Hồ             Tả Trạch

Hồ                    Hương Điền

1

Mực nước dâng bình thường (m)

85

45

58

2

Mực nước thượng lưu cao nhất khi xả lũ thiết kế (P=0,5%) MNLNTK (m)

85,16

50,00

58,17

3

Mực nước thượng lưu cao nhất khi xả lũ kiểm tra (P=0,1%) MNLNKT (m)

85,96

53,07

59,93

4

Dung tích phòng lũ tính từ MNLNTK xuống MNDBT (106m3)

2,95

88,72

5,37

5

Dung tích phòng lũ tính từ MNLNKT xuống MNDBT (106m3)

17,68

233,22

60,99

6

Cộng thêm 1m dưới MNDBT

33,55

254,42

99,69

7

Cộng thêm 2m dưới MNDBT

49,42

275,62

138,39

8

Cộng thêm 3m dưới MNDBT

65,30

296,82

177,09

9

Cộng thêm 4m dưới MNDBT

81,17

318,02

210,49

10

Cộng thêm 5m dưới MNDBT

97,04

339,22

243,89

 

Ngang với cao trình

(+80m)

 (+40m)

 (+53m)

11

Cộng thêm 6m dưới MNDBT

110,71

357,22

277,29

12

Cộng thêm 7m dưới MNDBT

124,38

375,22

310,69

13

Cộng thêm 8m dưới MNDBT

138,04

393,22

344,19

14

Cộng thêm 9m dưới MNDBT

151,71

411,22

373,85

15

Cộng thêm 10m dưới MNDBT                 

165,38

429,22

403,51

 

Ngang với cao trình

(+75m)

(+35m)

 (+48m)

16

Cộng thêm 11m dưới MNDBT

177,11

444,22

433,17

17

Cộng thêm 12m dưới MNDBT

188,83

459,22

462,83

18

Cộng thêm 13m dưới MNDBT

200,56

474,22

492,49

19

Cộng thêm 14m dưới MNDBT

212,20

489,22

518,07

20

Cộng thêm 15m dưới MNDBT               

224,02

504,22

543,65

 

Ngang với cao trình

(+70m)

(+30m)

 (+43m)

21

Cộng thêm 16m dưới MNDBT

234,01

515,72

569,23

22

Cộng thêm 17m dưới MNDBT

243,99

527,42

594,81

23

Cộng thêm 18m dưới MNDBT

253.98

539,12

620,39

24

Cộng thêm 19m dưới MNDBT

263,96

550,82

641,71

25

Cộng thêm 20m dưới MNDBT               

273,95

562,52

663,03

 

Ngang với cao trình

(+65m)

(+25m)

 (+38m)

26

Mực nước chết (m)

53

23

46

27

Dung tích chết Wc (ứng với mực nước chết, 106m3)

79,29

73,42

469,87

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Dung tích chết của hồ Hương Điền ở dòng cuối bảng này rất lớn nhưng không sử dụng được cho cả mục đích cấp nước và mục đích phòng lũ chỉ vì không có công trình cống xả đáy, là một khuyết điểm lớn, cần được khắc phục khi có điều kiện, hoặc cần chủ động tạo điều kiện để khắc phục.

2.3. Luận về các quy định liên quan mực nước +50m tại hồ Tả Trạch.

Các quy định liên quan mực nước +50m tại hồ Tả Trạch gồm:

a) Quy định tại Điều 11 QTVH: “Trong quá trình vận hành, khi mực nước các hồ đạt đến mực nước dâng bình thường (riêng mực nước hồ Tả Trạch đạt đến 50,0m), mà lưu lượng đến hồ còn tiếp tục tăng và có khả năng ảnh hưởng đến an toàn của công trình thì phải thực hiện chế độ vận hành đảm bảo an toàn công trình theo Quy trình vận hành của hồ được cấp có thẩm quyền ban hành, đồng thời, phải báo cáo ngay tới Trưởng Ban Chỉ huy phòng chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn tỉnh Thừa Thiên Huế”.

b) Các thông số của hồ Tả Trạch tại Phụ lục I kèm theo Quyết định số 1606/QĐ-TTg, ngày 13/11/2019 của Thủ tướng Chính phủ: MNDBT +45,0m; MNLNTK +50,0m; MNLNKT  +53,07m;

Quy định: “riêng mực nước hồ Tả Trạch đạt đến 50,0m” (cao hơn MNDBT, bằng MNLNTK)  mới chuyển qua thực hiện chế độ vận hành đảm bảo an toàn công trình là thí dụ về trường hợp chỉ định phải chủ động chứa lũ cao hơn MNDBT, so với quy định về đảm bảo an toàn tuyệt đối cho công trình hồ chứa nước: “không để mực nước hồ chứa vượt cao trình mực nước lũ kiểm tra với mọi trận lũ có chu kỳ lặp lại nhỏ hơn hoặc bằng lũ kiểm tra của công trình” là phù hợp hơn quy định: “khi mực nước các hồ đạt đến mực nước dâng bình thường” đã phải thực hiện chế độ vận hành đảm bảo an toàn công trình.

2.4. Luận về quy định vận hành các hồ trong tình huống bất thường tại QTVH.

a) Các tình huống bất thường quy định tại QTVH gồm:

- Tổng cục Khí tượng Thủy văn cảnh báo tiếp tục xuất hiện hoặc có nguy cơ xuất hiện đợt mưa, lũ lớn tiếp theo mà ở dưới hạ du đang bị ngập, lụt do lũ, ngập lụt với cấp độ rủi ro thiên tai từ cấp độ 3 trở lên[10] (sau đây viết tắt là THBT1);

- Mực nước của một trong các hồ Bình Điền và Hương Điền đã đạt đến mực nước dâng bình thường (riêng đối với hồ Tả Trạch mực nước đạt đến 50,0m) mà mực nước tại một trong các trạm thủy văn quy định tại Khoản 1 Điều 6 của Quy trình này vẫn trên báo động III (sau đây viết tắt là THBT2);

- Xuất hiện sự cố hoặc có nguy cơ đe dọa đến an toàn của hồ chứa, an toàn công trình thủy lợi, kết cấu hạ tầng ở hạ du” (sau đây viết tắt là THBT3).

Điểm d khoản 1 điều 7 QTVH định nghĩa: “Vận hành trong tình huống bất thường: là quá trình điều chỉnh chế độ vận hành hồ để xử lý các tình huống cụ thể được quy định tại Điểm c Khoản 2 Điều này và được quy định tại Điều 14 của Quy trình này”. Điều 14 QTVH quy định: “Việc xem xét, quyết định phương án vận hành các hồ để xử lý các tình huống bất thường phải căn cứ vào diễn biến tình hình mưa, lũ, yêu cầu về bảo đảm an toàn cho công trình, an toàn cho hạ du và bảo đảm an toàn cho tính mạng, tài sản của nhân dân và các công trình, kết cấu hạ tầng khác”. Các quy định này có một điểm yếu là không chỉ rõ cụ thể cần phải vận hành như thế nào với 03 tình huống bất thường, tuy có quan niệm tích cực khi đặt yêu cầu: “an toàn cho hạ du, bảo đảm an toàn cho tính mạng, tài sản của nhân dân và các công trình, kết cấu hạ tầng khác” ngang với “bảo đảm an toàn cho công trình” theo đúng quan điểm của Luật Thủy lợi tại khoản 6 Điều 2: “An toàn đập, hồ chứa nước là việc thực hiện các biện pháp thiết kế, thi công, quản lý, khai thác nhằm bảo đảm an toàn cho đập, hồ chứa nước, các công trình có liên quan, an toàn cho người và tài sản vùng hạ du đập”.

b) 02 tình huống khác:

- Tình huống phải đưa về chế độ vận hành bảo đảm an toàn công trình quy định tại Điều 11 QTVH: “Trong quá trình vận hành, khi mực nước các hồ đạt đến mực nước dâng bình thường (riêng mực nước hồ Tả Trạch đạt đến 50,0m), mà lưu lượng đến hồ còn tiếp tục tăng và có khả năng ảnh hưởng đến an toàn của công trình thì phải thực hiện chế độ vận hành đảm bảo an toàn công trình theo Quy trình vận hành của hồ được cấp có thẩm quyền ban hành, đồng thời, phải báo cáo ngay tới Trưởng Ban Chỉ huy phòng chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn tỉnh Thừa Thiên Huế (sau đây viết tắt là THBĐATĐ).

- Tình huống khẩn cấp quy định tại Luật thủy lợi: (i) tại khoản 8 Điều 2: “Vùng hạ du đập là vùng bị ngập lụt khi hồ xả nước theo quy trình; xả lũ trong tình huống khẩn cấp hoặc vỡ đập”; (ii) tại khoản 9 Điều 2: Tình huống khẩn cấp là trường hợp mưa, lũ vượt tần suất thiết kế; động đất vượt tiêu chuẩn thiết kế trên lưu vực hồ chứa nước hoặc tác động khác gây mất an toàn cho đập (sau đây viết tắt là THKC).

c) Nhận xét, so sánh về 05 tình huống.

- Điều 14 QTVH không chỉ rõ cần phải làm gì với 03 tình huống bất thường, chỉ nhắc lại chung chung nội dung cần phải “trông trên trông dưới trông trước trông sau”, là một điểm yếu trong QTVH. Trong khi Điều 11 QTVH quy định rất rõ cần phải làm gì với THBĐATĐ (được phép xả lũ tối đa bằng lưu lượng xả lũ thiết kế trong xả tháo lũ).  

- THBĐATĐ là tình huống mà trạng thái quân bình về ổn định đập ở hồ chứa nước có nguy cơ bị phá vỡ. THKC nguy hiểm hơn THBĐATĐ, khi mà nguy cơ đã trở thành cái hiện hữu. Nếu THKC là tình huống nguy hiểm nhất cho an toàn đập, thì THBT1 là tình huống nguy hiểm nhất đối với hạ du.

- Khác với THKC chỉ đề cập: “tác động khác gây mất an toàn cho đập”, THBT3 vừa đề cập sự “Xuất hiện sự cố hoặc có nguy cơ đe dọa đến an toàn của hồ chứa” vừa quan tâm: “an toàn công trình thủy lợi, kết cấu hạ tầng ở hạ du”, đặt vấn đề tháo lũ để bảo đảm an toàn cho đập nhưng cũng lưu ý phải bảo đảm an toàn cho vùng hạ du đập.

- THBT2 và THBDATĐ có chung điều kiện về mực nước hồ nhưng khác nhau về đối tượng quan tâm bảo đảm an toàn: THBT2 không đề cập lưu lượng nước đến mà lưu ý điều kiện: “mực nước tại một trong các trạm thủy văn quy định tại Khoản 1 Điều 6 của Quy trình này vẫn trên báo động III” (có ý cần hạn chế việc tháo lũ làm ảnh hưởng đến vùng hạ du đập đang bị ngập nặng), trong khi THBDATĐ và THKC khuyến cáo phải tháo bớt lũ để hạ thấp mực nước trong hồ mà không đề cập gì đến mực nước tại hạ du đập.

- THBT1 có cùng mối quan tâm bảo đảm an toàn cho đập và vùng hạ du đập giống như THBT3 nhưng trong điều kiện rất nghiêm trọng: Có dự báo về đợt mưa, lũ lớn tiếp theo trong khi ở dưới hạ du đang bị ngập, lụt do lũ, ngập lụt với cấp độ rủi ro thiên tai từ cấp độ 3 trở lên. Nói chung, đây là một trường hợp bất khả kháng.

Tất cả những nội dung trên cho thấy cần phải sắp xếp lại các tình huống cho phù hợp và bổ sung các định hướng cụ thể về giải pháp xử lý. Vấn đề này được trình bày ở Mục 3.5 ở dưới.

2.5. Tổng hợp số liệu vận hành các hồ chứa năm 2020, 2021, 2022.

Số liệu lũ và vận hành các hồ chứa tổng hợp từ các báo cáo ứng phó mưa, bão, lũ và lệnh vận hành từ các năm 2020, 2021, 2022 được trình bày tại Phụ lục “Tổng hợp số liệu vận hành hồ chứa các năm 2020, 2021, 2022” đính kèm. Có thể rút ra nhiều điều từ bảng tổng hợp này. Về mực nước, lưu lượng đã có đề cập tại Mục 1.2 và tại Bảng 4. Ở đây chỉ nêu thêm những điều rút ra từ ảnh hưởng của hiện tượng nước biển dâng do bão.

Bình thường, ở Thừa Thiên Huế: “Mực nước triều trung bình là 0,00m, mực nước cực đại là 1,26m và cực tiểu là -0,72m[11]. Trong khi đó, “Hiện tượng nước dâng lớn nhất do bão vùng ven biển là do bão Cecil xuất hiện vào tháng 10/1985, sau đó là bão Ketsana vào tháng 9/2009. Trong cơn bão Cecil 1985 nước dâng đo được ở Thuận An là 1,9m, ở Lăng Cô 1,7m cộng với mực nước thuỷ triều lúc bão là 1,4m làm mực nước biển dâng cao từ 3,1-3,3m, tràn qua đê ngăn mặn đi sâu vào đất liền 2-3km cuốn trôi nhiều nhà cửa, tàu thuyền và ngư lưới cụ của ngư dân. Nước dâng trong cơn bão Ketsana là lớn nhất trong những năm gần đây, cao hơn bão Xangsane năm 2006 khoảng 0,1-0,2m. Độ cao mực nước dao động từ 2,2-2,4m[12].

Gần đây, vào năm 2020, lũ kéo dài từ 07/10/2020 đến 17/10/2022, đỉnh triều cao cũng kéo dài từ 07/10/2020 (+1,17m) đến 17/10/2022 (+1,47m), đỉnh lũ tại Phú Ốc lúc 23h00 ngày 09/10/2020 (+5,24m), tại Kim Long lúc 00h00 ngày 12/10/2020 (+4,39m) trùng với thời gian đỉnh triều cao nhất (từ +1,80m đến 2,12m) từ 22h00 ngày 09/10/2020 đến 00h00 ngày 02/10/2020). Vào năm 2022, đỉnh triều đầu tháng 4 cao +1,04m; hoàn lưu bão số 5 gây sóng biển cao, nước dâng, triều cường +1,7m làm chậm khả năng thoát lũ (từ 09h00 ngày 14 đến 09h00 ngày 15/10/2022 mực nước trạm Phú Ốc tăng từ +3,06m lên +5,00m, trạm Kim Long tăng từ dưới báo động 2 lên +3,96m); hoàn lưu bão số 6 gây triều cường lớn, mực nước tại đập Thảo Long ngày 19/10/2022 đạt tới +1,3m.

Ngoài làm chậm khả năng thoát lũ, nước biển dâng do bão kết hợp sóng lớn tràn vào bờ gây nên tình trạng sạt lở, xâm thực bờ biển, đồng thời theo cửa biển tràn vào khu vực thấp trũng phía trong gây ngập lụt, dân gian gọi là "Lụt biển". Trong khi chưa có điều kiện giải quyết bài toán thoát lũ khi vừa có lũ vừa có nước biển dâng do bão, cần có định hướng về cốt nền đối phó với “Lụt biển” cho phù hợp.

3. Giải pháp tăng cường hiệu quả giảm lũ và phát điện ở các hồ chứa trên lưu vực sông Hương.

Yêu cầu đặt ra là không giữ mực nước hồ cao quá nhằm đảm bảo an toàn phòng lũ cho đập, không thấp quá gây thiệt hại cho phát điện, lại không được xả về hạ du quá mức đảm bảo an toàn cho hạ du (yêu cầu mới đặt ra tại Nhiệm vụ quy hoạch được duyệt). Yêu cầu và giải pháp đòi hỏi phải chọn mức đảm bảo an toàn về lũ cho vùng hạ du đập của Thừa Thiên Huế và đề xuất điều chỉnh quy trình vận hành hiện có (QTVH) cho phù hợp với mức bảo đảm an toàn về lũ đó.

3.1. Mức đảm bảo an toàn về lũ cho Thừa Thiên Huế.

- Căn cứ quan niệm tại khoản 8 Điều 2 Luật Thủy lợi: “Vùng hạ du đập là vùng bị ngập lụt khi hồ xả nước theo quy trình”;

- Căn cứ yêu cầu Nhiệm vụ quy hoạch chung đô thị Thừa Thiên Huế về “đảm bảo an toàn về lũ, úng”;

- Căn cứ quy định tại Điều 14 QTVH: “Việc xem xét, quyết định phương án vận hành các hồ để xử lý các tình huống bất thường phải căn cứ vào diễn biến tình hình mưa, lũ, yêu cầu về bảo đảm an toàn cho công trình, an toàn cho hạ du và bảo đảm an toàn cho tính mạng, tài sản của nhân dân và các công trình, kết cấu hạ tầng khác”,

Đề xuất: (i) chọn mức bảo đảm an toàn về lũ cho Thừa Thiên Huế là mức bảo đảm an toàn về lũ cho đô thị và các khu vực xây dựng khác (tương ứng với báo động lũ cấp 2 các trạm thủy văn hạ lưu đập trên sông); (ii) chọn mức giới hạn mực nước tại trạm thủy văn hạ lưu đập trên sông là mức báo động lũ cấp 2 trừ giá trị chênh lệch độ dốc thủy lực Δh nhằm đảm bảo điều kiện tự chảy cho mạng lưới thoát nước. Cụ thể:

+ Trên sông Hương là +2,0m - Δh (m) tại trạm Kim Long.

+ Trên sông Bồ là +3,0m - Δh (m) tại trạm Phú Ốc.

+ Trên sông Ô Lâu là mức giới hạn mực nước báo động lũ cấp 2  - Δh (m) tại trạm Phong Bình (đề xuất chọn trạm Phong Bình, không chọn trạm Niệm Phò do trạm Phong Bình đã có tên trong Danh sách các trạm thủy văn do Tổng cục Khí tượng thủy văn thực hiện dự báo, cảnh báo lũ tại Phụ lục II kèm theo Quyết định số 18/2021/QĐ-TTg ngày 22/4/2021 của Thủ tướng Chính phủ).

Mức giới hạn mực nước báo động lũ các cấp trên sông Ô Lâu đề nghị Tỉnh tổ chức xây dựng, ban hành theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 5 Quyết định số 05/2020/QĐ-TTg ngày 31/01/2020 của Thủ tướng Chính phủ quy định mực nước tương ứng với các cấp báo động lũ tại các trạm thủy văn trên các sông phục vụ công tác phòng, chống, ứng phó với lũ, ngập lụt và phát triển kinh tế - xã hội[13], hoặc lập hồ sơ trình Thủ tướng Chính phủ bổ sung vào quy định tại quyết định số 05/2020/QĐ-TTg ngày 31/01/2020 của Thủ tướng Chính phủ.

Trách nhiệm đề xuất giá trị Δh thuộc Tư vấn lập đồ án quy hoạch.

Việc lựa chọn bảo vệ cho đô thị và các khu vực xây dựng khác đồng nghĩa với việc chấp nhận vùng hạ du đập ở các khu vực sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, bãi thấp ven sông vẫn có thể bị ngập do xả lũ theo quy trình.

3.2. Tính dung tích phòng lũ cần có ứng với Mức giới hạn mực nước đã chọn. 

Việc tính toán dung tích phòng lũ cần có của mỗi hồ ứng với Mức giới hạn mực nước đã chọn được thực hiện theo Phương pháp thiết kế xả lũ an toàn cho vùng hạ du đập đã giới thiệu tại bản tham luận Như thế nào là đảm bảo an toàn về lũ, úng cho Thừa Thiên Huế đã được nhắc tới tại Mục 1.2 ở trên. Trong đó dung tích phòng lũ cần có ứng với Mức giới hạn mực nước đã chọn là dung tích phòng lũ lớn nhất và lưu lượng xả lũ cho phép ứng với mục tiêu bảo đảm an toàn về lũ đã định cho vùng hạ du đập là lưu lượng xả lũ cho phép nhỏ nhất, vì cả 2 đều ứng với trận lũ kiểm tra của công trình.

Theo quy định, lưu lượng xả lũ lớn nhất cho phép đó chỉ áp dụng khi trên toàn tuyến lưu vực tính đến trạm thủy văn đã định dưới đập, hồ chứa nước xảy ra trận lũ thiết kế. Vì vậy, trong quá trình vận hành giảm lũ cần căn cứ mực nước cụ thể tại trạm thủy văn ở thời điểm, đối chiếu với Biểu đồ tương quan lưu lượng xả lũ và mực nước tại các trạm thủy văn để lựa chọn lưu lượng xả lũ phù hợp. Đó cũng là lý do để thực hiện nội dung mục 3.3 dưới đây.

3.3. Sự cần thiết phải lập Biểu đồ tương quan lưu lượng và mực nước tại các trạm thủy văn Kim Long, Phú Ốc.

Để có cơ sở cho việc quyết định vận hành xả lũ đối với các tình huống bất thường, ngoài bảng dung tích phòng lũ các hồ chứa, cần tiến hành lập Biểu đồ tương quan lưu lượng và mực nước tại các trạm thủy văn Kim Long, Phú Ốc cho các hồ chứa (đường quan hệ Q ~ H ). Đây là việc cần làm ngay.

Thời gian bắt đầu thực hiện vào trước khi bắt đầu mùa lũ (khoảng cuối tháng 8, đầu tháng 9). Để thực hiện, cần được bố trí kinh phí, thông qua/phê duyệt Đề cương tiến hành thử nghiệm do đơn vị tư vấn lập và lựa chọn đơn vị tư vấn thực hiện đề cương, trong đó bao gồm việc xả lũ thử nghiệm để kiểm chứng.

3.4. Mực nước quân bình

Việc vận hành hồ chứa nước cần giữ nguyên tắc mực nước hồ không được vượt MNDBT để đảm bảo quân bình giữa dung tích chứa và dung tích rỗng của hồ chứa. Tuy nhiên, do hồ Bình Điền và hồ Hương Điền có chênh lệch độ lớn giữa MNLNKT và MNDBT, giữa lưu lượng xả lũ kiểm tra và dung tích phòng lũ nguyên sơ quá bất lợi về phòng lũ như đã thấy ở Bảng 1, làm cho MNDBT của hai hồ này không còn tương xứng với chức năng quân bình âm dương của nó. Vì vậy, cần bổ sung khái niệm mực nước mới phù hợp với chức năng về quân bình âm dương tại 2 hồ này để thay thế, gọi là Mực nước quân bình (viết tắt là MNQB).

Các hồ Hương Điền, Bình Điền và Tả Trạch đều là hồ hiện có, đòi hỏi phải đánh giá khả năng phòng lũ của chúng có đủ để đáp ứng Mức bảo đảm an toàn về lũ đã chọn hay không, trên cơ sở đó xác định MNQB ở mỗi hồ để đưa vào các tình huống của quy trình vận hành nêu tại mục 3.5 dưới đây.

a) Đánh giá khả năng phòng lũ của các hồ Hương Điền, Bình Điền và Tả Trạch.

Đánh giá khả năng phòng lũ của hồ là so sánh dung tích phòng lũ của hồ (ký hiệu là DTPLhiệncó) với dung tích phòng lũ của hồ đó (ký hiệu là DTPLcầncó) được xác định theo Phương pháp thiết kế xả lũ an toàn cho vùng hạ du đập có tại bài viết Như thế nào là đảm bảo an toàn về lũ, úng cho Thừa Thiên Huế .

Điều kiện là phải có DTPLhiệncó DTPLcầncó.

Nếu DTPLhiệncó DTPLcầncó, kết quả đánh giá là đủ, không cần bổ sung.

Nếu DTPLhiệncó < DTPLcầncó, kết quả đánh giá là không đủ, cần có giải pháp bổ sung cho đủ.

Cụ thể:

- Đối với hồ Hương Điền: Xác định DTPLcầncó với Ftạivịtríđập tại vị trí đập Hương Điền, FtạivịtrítrạmTV tại vị trí trạm thủy văn Phú Ốc; Qcònlại =  QtrạmmaxKT - QđậpmaxKT - QđếnALưới (bổ sung thành phần QđếnALưới với giả thiết hồ Hương Điền tiếp nhận QđếnALưới từ Thủy điện A Lưới trong mùa lũ). Nếu DTPLhiệncó < DTPLcầncó, giải pháp bổ sung bao gồm:

+ Bổ sung DTPL của hồ có DTPLhiệncó lớn nhất + DTPL của hồ có DTPLhiệncó lớn thứ hai + … của các hồ hiện có phía trên hồ Hương Điền cho đến khi có tổng DTPLhiệncó DTPLcầncó. DTPLhiệncó của các hồ đọc trên đường quan hệ W ~ Z của mỗi hồ.

+ Nếu không đủ sẽ giả quyết bằng cách giả thiết QđếnALưới = 0 để tính toán so sánh lại và trong Quy trình vận hành hồ chứa nước kiểu mới sẽ quy định hồ A Lưới không được phát điện xả lũ trong một số trường hợp của mùa lũ, hoặc xem xét khả năng nâng cao trình MNLNTK và cao trình đỉnh đập cho đủ DTPLcầncó.

- Đối với hồ Bình Điền và hồ Tả Trạch: Xác định DTPLcầncó với Ftạivịtríđập bằng tổng (FtạivịtríđậpBìnhĐiền + FtạivịtríđậpTảTrạch), FtạivịtrítrạmTV tại vị trí trạm thủy văn Kim Long; Qcònlại =  QtrạmmaxKT - QđậpmaxKT, trong đó QđậpmaxKT là chung cho cả 2 hồ Bình Điền và Tả Trạch và DTPLhiệncó là tổng DTPLhiệncó của 2 hồ đó. Nếu DTPLhiệncó < DTPLcầncó, giải pháp là bổ sung DTPL của hồ có DTPLhiệncó lớn nhất + DTPL của hồ có DTPLhiệncó lớn thứ hai + … của các hồ hiện có phía trên hồ Tả Trạch cho đến khi có tổng DTPLhiệncó DTPLcầncó. DTPLhiệncó của các hồ đọc trên đường quan hệ W ~ Z của mỗi hồ. Nếu đã làm vậy mà vẫn không đủ thì cần xem xét khả năng nâng cao trình MNLNTK và cao trình đỉnh đập để có đủ DTPLcầncó.

b) Xác định MNQB ở các hồ Hương Điền, Bình Điền và Tả Trạch để đưa vào các tình huống của quy trình vận hành.

Mực nước quân bình âm dương (MNQB) ở mỗi hồ chính là mực nước mà tại đó DTPLhiệncó hoặc tổng DTPLhiệncó DTPLcầncó, trong đó: DTPLcầncó được xác định như nêu tại điểm a ở trên; DTPLhiệncó được đọc trên đường quan hệ W ~ Z của mỗi hồ.

 

3.5. Đề xuất sắp xếp lại các tình huống và quy định ứng phó với mỗi tình huống (đề xuất quy trình vận hành kiểu mới).

Như dã trình bày ở Mục 2.4, có sự cần thiết phải sắp xếp lại các tình huống: THBT1, THBT2, THBT3, THBDANĐ và THKC cho phù hợp và bổ sung các định hướng cụ thể về giải pháp xử lý cho mỗi tình huống.

a) Các nguyên tắc sắp xếp tình huống, quy định ứng phó.

Thống nhất tên gọi chung là tình huống và sắp xếp theo thứ tự mức độ nguy cơ tăng dần từ thấp đến cao. Trên hồ lấy mực nước lũ kiểm tra làm chuẩn đảm bảo an toàn về lũ cho đập. Ở hạ du đập lấy Mức giới hạn mực nước (MGHMN) được chọn của trạm thủy văn làm chuẩn đảm bảo an toàn về lũ cho hạ du. Sắp xếp và đặt tên tình huống đơn giản về nội dung, đủ về tình huống và cụ thể về giải pháp, theo 03 nguyên tắc:

- Nguyên tắc xả tối thiểu: Xả đảm bảo hiệu quả phát điện, cấp nước và dòng chảy tối thiểu trên sông.

- Nguyên tắc xả điều tiết giảm lũ: Bằng xả thối thiểu + xả bổ sung để điều tiết giảm lũ: xả bổ sung tăng dần khi mực nước hồ tăng, xả bổ sung giảm dần khi mực nước tại trạm thủy văn Kim Long, Phú Ốc lên tới Mức giới hạn mực nước (MGHMN) được chọn; luôn duy trì hoặc đưa mực nước hồ về MNQB, đồng thời không để mực nước hồ vượt cao trình mực nước lũ kiểm tra với mọi trận lũ có chu kỳ lặp lại nhỏ hơn hoặc bằng lũ kiểm tra của công trình, trừ các trường hợp bắt buộc phải xả lũ để đảm bảo an toàn công trình.

- Nguyên tắc vận hành xả theo tình huống: Trong quá trình vận hành xả theo tình huống, kết quả vận hành dẫn đến chuyển sang tình huống nào thì chuyển qua vận hành theo tình huống đó.

Bên cạnh đó còn có Nguyên tắc thực hiện chế độ quan trắc theo quy định[14]: Khi mực nước hồ dưới MNQB, hàng ngày quan trắc 03 lần (7h, 13h, 19h). Khi nước đến hồ có lũ, quan trắc mực nước theo chế độ lần/h. Khi mực nước hồ > MNQB, quan trắc mực nước theo chế độ lần/h, hoặc tùy theo tình hình mưa trên lưu vực, tốc độ tăng của mực nước hồ, đặc điểm của hồ, chủ đập có thể thực hiện chế độ quan trắc dầy hơn.

c) Có 09 tình huống tuần hoàn[15] và 02 tình huống riêng lẻ nhưng không tách rời với 09 tình huống tuần hoàn:

- Tình huống 1: MNQB < Mực nước hồ MNDBT, đang vận hành xả điều tiết giảm lũ; có mưa, lũ hoặc không có mưa, lũ[16].

Tiếp tục vận hành xả điều tiết giảm lũ. Kết quả vận hành mực nước hồ có thể giữ nguyên Tình huống 1, chuyển sang Tình huống 2 hoặc Tình huống 5.

- Tình huống 2: MNQB Mực nước hồ < MNDBT, đang vận hành xả điều tiết giảm lũ; có mưa, lũ hoặc không có mưa, lũ.  

 Chuyển sang vận hành xả tối thiểu. Kết quả vận hành có thể trở về Tình huống 1, giữ nguyên Tình huống 2, chuyển sang Tình huống 3 hoặc 4.

- Tình huống 3: Mực nước hồ < MNBQ, đang vận hành xả tối thiểu; có mưa, lũ hoặc không có mưa, lũ.

Tiếp tục vận hành xả tối thiểu. Kết quả vận hành có thể trở về Tình huống 2, giữ nguyên Tình huống 3, hoặc chuyển sang Tình huống 4.

- Tình huống 4: MNQB Mực nước hồ < MNDBT, đang vận hành xả tối thiểu; có mưa, lũ hoặc không có mưa, lũ.

Chuyển sang vận hành xả điều tiết giảm lũ. Kết quả vận hành có thể trở về Tình huống 1, giữ nguyên Tình huống 4, hoặc chuyển sang Tình huống 5.

- Tình huống 5: MNDBT Mực nước hồ < MNLNTK, đang vận hành xả điều tiết giảm lũ; có mưa, lũ hoặc không có mưa, lũ.

Tiếp tục vận hành xả điều tiết giảm lũ. Kết quả vận hành có thể trở về Tình huống 1, giữ nguyên Tình huống 5, hoặc chuyển sang Tình huống 6.

- Tình huống 6: MNDBT < Mực nước hồ MNLNTK, đang vận hành xả điều tiết giảm lũ; có mưa, lũ hoặc không có mưa, lũ.

Tiếp tục vận hành xả điều tiết giảm lũ. Riêng hồ Tả Trạch chỉ vận hành phát điện đủ số lượng tổ máy thiết kế cho đến khi mực nước hồ Bình Điền hạ xuống MNQB mới chuyển sang vận hành xả điều tiết giảm lũ. Hồ có mức nước đạt đến MNLNTK có thể xả với lưu lượng tăng dần tới mức làm cho mực nước tại trạm thủy văn hạ lưu bằng MGHMN đã định. Kết quả vận hành có thể trở về Tình huống 5, giữ nguyên Tình huống 6, hoặc chuyển sang Tình huống 7.

Khi bắt đầu xả lũ với lưu lượng tăng dần tới mức làm cho mực nước tại trạm thủy văn hạ lưu bằng MGHMN đã định, phải đồng thời báo cáo ngay tới Trưởng Ban Chỉ huy phòng chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn tỉnh Thừa Thiên Huế và thực hiện theo các ý kiến chỉ đạo (nếu có).

- Tình huống 7: MNLNTK Mực nước hồ < MNLNKT, đang vận hành xả điều tiết giảm lũ, mực nước tại trạm thủy văn Kim Long, hoặc trạm Phú Ốc, hoặc cả hai bằng MGHMN đã định; có mưa, lũ hoặc không có mưa, lũ.

Tiếp tục vận hành xả điều tiết giảm lũ. Riêng hồ Tả Trạch chỉ vận hành phát điện đủ số lượng tổ máy thiết kế cho đến khi hồ Bình Điền đã xả lũ đạt xuống MNQB mới chuyển sang vận hành xả điều tiết giảm lũ. Hồ có mực nước đạt đến MNLNTK được phép xả lũ với lưu lượng xả tăng dần nhưng không làm cho mực nước tại trạm thủy văn hạ lưu vượt mức báo động lũ cấp 2 (trên sông Hương là +2,0m tại Kim Long; trên sông Bồ là +3,0m tại Phú Ốc). Kết quả vận hành có thể trở về Tình huống 6, giữ nguyên Tình huống 7, hoặc chuyển sang Tình huống 8.

Khi bắt đầu xả tăng dần nhưng không làm cho mực nước tại trạm thủy văn hạ lưu vượt mức báo động lũ cấp 2, phải đồng thời báo cáo ngay tới Trưởng Ban Chỉ huy phòng chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn tỉnh Thừa Thiên Huế và thực hiện theo các ý kiến chỉ đạo (nếu có).

- Tình huống 8: MNLNTK < Mực nước hồ MNLNKT, đang vận hành xả điều tiết giảm lũ; mực nước tại trạm thủy văn Kim Long, hoặc trạm Phú Ốc, hoặc cả hai mức báo động lũ cấp 2; có mưa, lũ hoặc không có mưa, lũ.

Tiếp tục vận hành xả điều tiết giảm lũ cho đến khi mực nước hồ xuống đến MNQB. Trong đó: Hồ có MNLNTK < Mực nước hồ < MNLNKT xả điều tiết giảm lũ như ở Tình huống 7, Hồ có Mực nước hồ = MNLNKT được phép xả lũ với lưu lượng xả tăng dần tới tối đa bằng lưu lượng xả lũ thiết kế của hồ đó. Kết quả vận hành có thể trở về Tình huống 7, giữ nguyên Tình huống 8, hoặc có hồ chuyển sang Tình huống 9.

Khi bắt đầu xả tăng dần nhưng không làm cho mực nước tại trạm thủy văn hạ lưu vượt mức báo động lũ cấp 2, hoặc khi bắt đầu xả tăng dần tới tối đa bằng lưu lượng xả lũ thiết kế của hồ, phải đồng thời báo cáo ngay tới Trưởng Ban Chỉ huy phòng chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn tỉnh Thừa Thiên Huế và thực hiện theo các ý kiến chỉ đạo (nếu có).

- Tình huống 9: Mực nước hồ > MNLNKT, đe dọa bị vỡ đập. Cho dù đập có giữ được thì vùng hạ du cũng bị ngập nặng.

Vận hành mở tối đa các tất cả các cửa xả lũ (lúc này công trình xả lũ làm việc như tràn tự do). Khi nước trong hồ bắt đầu xuống, lần lượt đóng các cửa tràn xả lũ theo thứ tự từ ngoài vào trong, từng cặp một: 2 cửa biên 2 bên, nếu nước tiếp tục xuống => đóng 2 cửa giữa kế tiếp (riêng với hồ Hương Điền, nếu nước tiếp tục xuống  => đóng cửa số 3 còn lại). Chuẩn bị vận hành theo tình huống và chờ mực nước ở trạm thủy văn hạ lưu xuống dưới MGHMN đã định một khoảng cách an toàn nào đó thì bắt đầu vận hành xả theo tình huống. Kết quả vận hành có thể là Tình huống 6 hoặc Tình huống 5.

Trước khi bắt đầu vận hành mở tối đa các tất cả các cửa xả lũ, phải báo cáo sớm với Trưởng Ban Chỉ huy phòng chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn tỉnh Thừa Thiên Huế để có thời gian thực hiện việc sơ tán dân và chuẩn bị đón xả lũ ở vùng hạ du đập, đồng thời nghiêm túc thực hiện theo các ý kiến chỉ đạo. Khi bắt đầu đóng các cửa tràn xả lũ, hoặc khi bắt đầu vận hành xả theo tình huống, phải báo cáo tới Trưởng Ban Chỉ huy phòng chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn tỉnh Thừa Thiên Huế và thực hiện theo các ý kiến chỉ đạo (nếu có).

- Tình huống đặc biệt 1: Đang vận hành xả theo tình huống thì có dự báo có thể xảy ra động dất hoặc có động đất (kể cả động đất vượt tiêu chuẩn thiết kế trên lưu vực hồ chứa nước).

Tiếp tục vận hành xả theo tình huống và chuẩn bị thực hiện phương án bảo vệ đập đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt/thông qua (nếu có); chuẩn bị thực hiện việc kiểm tra đột xuất công trình sau khi có động đất. Kết quả vận hành là một trong các kết quả của tình huống đang vận hành.

- Tình huống đặc biệt 2: Đang vận hành xả theo tình huống thì xuất hiện sự cố hoặc tác động khác đe dọa gây mất an toàn cho đập, an toàn công trình thủy lợi, kết cấu hạ tầng ở hạ du đập.

Tiếp tục vận hành xả theo tình huống và xử lý theo phương án bảo vệ đập đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt/thông qua (nếu có) hoặc xử lý tạm thời tại chỗ,  báo cáo lên cơ quan chủ quản, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế về trường hợp xảy ra và biện pháp xử lý đã thực hiện, đồng thời lập phương án xử lý chính thức, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt/thông qua để thực hiện. Kết quả vận hành là một trong các kết quả của tình huống đang vận hành.

4. Kết luận.

Đây là bài viết thứ 10 liên quan bài toán trị thủy nhằm đảm bảo an toàn về lũ, úng của quy hoạch chung đô thị Thừa Thiên Huế, mở rộng ra là các vấn đề về chống ngập và thoát nước, đã được đúc kết thành chân lý: Việc kiểm soát nước mưa không thể làm riêng rẽ, độc lập với việc kiểm soát lũ, kiểm soát triều, vì toàn bộ nước mưa trên vùng đô thị cuối cùng đều phải thoát xuống các bể tiêu là kênh rạch bao quanh”. Kiểm soát lũ, kiểm soát triều thuộc chức năng của ngành Thủy lợi, đã có tiền lệ hỗ trợ cho thoát nước đô thị từ Quy hoạch 1547, được tích hợp vào quy hoạch chung đô thị TP.HCM và được yêu cầu “đảm bảo an toàn về lũ, úng” tại Nhiệm vụ Quy hoạch chung đô thị Thừa Thiên Huế.

Tại tham luận chuẩn bị trước Hội thảo, người viết đã xây dựng và hoàn chỉnh phương pháp mới gắn kết thiết kế dung tích phòng lũ của hồ chứa nước với mức đảm bảo an toàn cụ thể về xả lũ cho vùng hạ du đập. Tại bài viết này, người viết tiếp tục dẫn dắt các quan niệm, khái niệm để xây dựng quy trình vận hành kiểu mới cho các hồ Hương Điền, Bình Điền, Tả Trạch, trả lời cụ thể cho câu hỏi: Vận hành các hồ Bình Điền, Hương Điền và Tả Trạch trên hệ thống sông Hương như thế nào để đảm bảo an toàn về lũ cho Thừa Thiên Huế?”, với mức đảm bảo an toàn về lũ cho Thừa Thiên Huế là đảm bảo cho đô thị và các khu vực xây dựng khác không bị ngập (tương ứng mức báo động lũ cấp 2 trên sông), đồng thời cũng là giải pháp tăng cường hiệu quả giảm lũ và phát điện mà vẫn tuân thủ các quy định pháp luật hiện hành (chưa cần phải có tháo gỡ).

Quy trình vận hành kiểu mới này được hình thành trên cơ sở nhận thức mới về đập, hồ chứa nước, trong đó đập là cái cố định còn hồ chứa nước là cái phái sinh từ đập mà ra, không cố định mà biến đổi theo mực nước trong hồ. Sự biến đổi đó lại theo quy luật biến đổi âm dương của một cặp dung tích âm - dương: (a) dương là dung tích chứa nước, tính từ mực nước hồ xuống đến đáy hồ, là dung tích hữu ích về mặt cấp nước; (b) âm là dung tích trống tính từ MNLNKT đến mực nước hồ, là dung tích hữu ích về mặt phòng lũ. Hai dung tích đó hợp thành một thể thống nhất tạo thành Thái cực đồ của hồ chứa, có tổng (dung tích chứa + dung tích trống) là một hằng số nhưng hai dung tích thành tố thì biến đổi liên tục, không ngừng theo quy luật âm dương tiêu, trưởng: Nước đến thì dương trưởng âm tiêu, nước đi thì dương tiêu âm trưởng, liên tục biến đổi xoay vần, tuần hoàn từ năm này qua năm khác, lấy MNQB (lẽ ra là MNDBT) làm mức cân bằng để để vậnn hành giữ cho mực nước hồ không vượt MNLNKT.

Dưới góc nhìn của nhận thức mới đó, việc vận hành hồ chứa chính là điều tiết sự tiêu, trưởng tự nhiên phù hợp với các mục tiêu cấp nước, giảm lũ và không vượt Mức giới hạn mực nước được chọn tại trạm thủy văn hạ du đập ở mỗi thời điểm trong năm. Từ đó đã gộp quy trình vận hành mùa lũ và mùa cạn vào một thể thống nhất, với 11 tình huống vận hành, trong đó 09 tình huống liên tục biến đổi từ tình huống này sang tình huống khác trước hoặc sau nó, bao gồm tất cả các tình huống bình thường và bất thường khác nhau có thể xảy ra (kể cả 02 tình huống đặc biệt còn lại), đặt tất cả chúng vào Thái cực đồ của hồ chứa mà vận hành theo các nguyên tắc: (i) việc vận hành phải căn cứ vào diễn biến tình hình mưa, lũ, yêu cầu về cấp nước và đảm bảo an toàn cho công trình, vùng hạ du đập và dựa vào 02 công cụ vận hành là Bảng dung tích phòng lũ và Biểu đồ tương quan lưu lượng và mực nước tại các trạm thủy văn Kim Long, Phú Ốc (trong đó Bảng thứ hai chưa có mà phải tiến hành thử nghiệm, đo đạc để xây dựng nên cần kinh phí thực hiện); (ii) trong quá trình vận hành theo tình huống, kết quả vận hành dẫn đến chuyển sang tình huống nào thì chuyển qua vận hành theo tình huống đó, và cứ thế mà tiếp tục diễn tiến tuần hoàn quanh năm.

Đây là vấn đề mới, cần được kiểm chứng. Với những lợi ích mà nó hứa hẹn đem lại, có thể cho thử nghiệm để kiểm chứng./.

TP. HCM, ngày 26/5/2023. Nat.



[2]  Tên đầy đủ là: Phương pháp tính toán thiết kế dung tích phòng lũ cho hồ chứa nước theo lưu lượng xả lũ lớn nhất cho phép ứng với mục tiêu bảo đảm an toàn về lũ đã định cho vùng hạ du đập, theo đó: “lưu lượng xả lũ lớn nhất được phép xả xuống hạ du QxảlũmaxKT là lưu lượng không làm cho lưu lượng tại trạm thủy văn ở hạ du lớn hơn “lưu lượng tương ứng với mức giới hạn mực nước (viết tắt MGHMN) được chọn làm mức bảo đảm an toàn về lũ cho vùng hạ du đập” (QtươngứngMGHMN)”. Sau khi đã tính được QxảlũmaxKT, việc tính toán Mực nước lớn nhất kiểm tra, Dung tích phòng lũ lớn nhất được thực hiện bình thường theo cách tính hiện tại. Việc tính toán an toàn về ổn định của đập cũng được thực hiện bình thường theo cách tính hiện tại

[3] Ý kiến tổng kết của Lãnh đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn báo cáo trước Thường trực Chính phủ ngày 08/7/2015 về thực hiện các quy hoạch thoát nước và chống ngập ở TP.HCM.

[4]  Nguồn: "nghĩa phái sinh" là gì? Nghĩa của từ nghĩa phái sinh trong tiếng Việt. Từ điển Việt-Việt (vtudien.com): Nghĩa được tách ra hay được nảy sinh từ nghĩa gốc, nghĩa đầu tiên của từ. Trong các nghĩa của một từ nhiều nghĩa, có một nghĩa là cơ bản, còn các nghĩa khác đều là phái sinh, cũng như đập chắn nước là cái cơ bản, cái tạo thành hồ chứa nước nên hồ chứa nước là cái phái sinh từ đập chắn nước; dung tích hữu ích là cái cơ bản, cái đòi hỏi phải có dung tích điều tiết giảm lũ nên dung tích điều tiết giảm lũ là cái phái sinh từ dung tích hữu ích của hồ chứa nước. 

[5] Là: Mực nước hồ cần phải đạt được ở cuối thời kỳ tích nước để đảm bảo cung cấp đủ nước theo mức đảm bảo thiết kế”.

[6] Là: Mực nước cao nhất xuất hiện trong hồ chứa nước khi trên lưu vực xảy ra lũ thiết kế”.

[7] Là: Mực nước cao nhất xuất hiện trong hồ chứa nước khi trên lưu vực xảy ra lũ kiểm tra

[9] Mục 1.3.25. QCVN 04-05:2022/BNNPTNT: Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về Công trình thủy lợi, Phòng chống thiên tai - Phần I. Công trình thủy lợi - Các quy định chủ yếu về thiết kế giải thích từ ngữ: (là) “Phần dung tích của hồ chứa nước nằm trong phạm vi từ mực nước đón lũ đến mực nước lớn nhất kiểm tra làm nhiệm vụ điều tiết lũ. Tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng công trình hồ chứa nước, dung tích phòng lũ có thể bố trí nằm dưới mực nước dâng bình thường hoặc nằm từ mực nước dâng bình thường trở lên”.

Có câu thòng: “dung tích phòng lũ có thể bố trí nằm dưới mực nước dâng bình thường hoặc nằm từ mực nước dâng bình thường trở lên” là vì các hồ chứa thủy điện thường bố trí như vậy để giảm chiều cao đập.

[10] Cấp độ rủi ro thiên tai từ cấp độ 3 trở lên trên hệ thống sông Hương xảy ra khi: Mực nước tại trạm thủy văn Kim Long trên sông Hương từ +2,0m trở lên hoặc mực nước tại trạm thủy văn Phú Ốc trên sông Bồ từ +3,0m trở lên.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 45 Quyết định số 18/2021/QĐ-TTg ngày 22/4/2021 của Thủ tướng Chính phủ quy định về dự báo, cảnh báo, truyền tin thiên tai và cấp độ rủi ro thiên tai, trạm thủy văn, rủi ro thiên tai cấp độ 3 gồm các trường hợp sau:

 a) Dự báo mực nước lũ cao từ báo động 2 đến dưới báo động 3 cộng 0,3 m tại các trạm thủy văn thuộc khu vực 4;

b) Dự báo mực nước lũ cao từ báo động 3 trở lên tại các trạm thủy văn thuộc khu vực 3;

c) Dự báo mực nước lũ cao từ báo động 1 đến dưới báo động 2 tại các trạm thủy văn thuộc khu vực 4 hoặc mực nước lũ cao từ báo động 2 đến dưới báo động 3 tại các trạm thủy văn thuộc khu vực 3 hoặc mực nước lũ cao từ báo động 2 đến dưới báo động 3 cộng 1,0 m tại các trạm thủy văn thuộc khu vực 2 hoặc mực nước lũ cao từ báo động 3 đến dưới báo động 3 cộng 1,0 m tại các trạm thủy văn thuộc khu vực 1 trên nhiều lưu vực sông.

Trong đó: Sông Hương thuộc khu vực 3; sông Bồ thuộc khu vực 2. Áp dụng quy định về cấp độ 3 trên nhiều lưu vực sông tại điểm c: “Mực nước lũ cao từ báo động 2 đến dưới báo động 3 tại trạm thủy văn Kim Long trên sông Hương hoặc mực nước lũ cao từ báo động 2 đến dưới báo động 3 cộng 1,0 m tại trạm thủy văn Phú Ốc trên sông Bồ”.

[13] Điểm a khoản 3 Điều 5 Quyết định 05/2020/QĐ-TTg quy định: Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm: “Tổ chức xây dựng, ban hành quy định mực nước tương ứng với các cấp báo động lũ tại các vị trí thuộc địa bàn quản lý chưa được quy định trong Quyết định này

[14] TCVN 8414 2010 Công trình thủy lợi – Quy trình quản lý vận hành, khai thác và kiểm tra hồ chứa nước.

[15] Các tình huống liên quan với nhau, tình huống này phát sinh từ tình huống kia và có thể diễn biến trở lại.

[16] Lũ là hiện tượng mực nước sông dâng cao trong khoảng thời gian nhất định, sau đó xuống.

   

Mời download & phụ lục đính kèm

Đóng góp ý kiến về bài viết này 

Mới hơn bài này
Các bài đã đăng
Tiêu điểm
Biến đổi khí hậu và An ninh nguồn nước ở Việt Nam.[08/07/21]
Đại hội lần thứ IV, sự kiện lớn của Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam.[27/04/19]
Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam phấn đấu vì sự nghiệp phát triển thủy lợi của đất nước.[18/04/19]
Danh sách Hội viên tập thể đã đóng niên liễm 2018.[11/01/19]
Chùm ảnh Đại hội lần thứ 2 Hội Đập lớn Việt Nam.[13/08/09]
Nhìn lại 5 năm hoạt động của VNCOLD trong nhiệm kỳ đầu tiên.[10/08/09]
Thông báo về Hội nghị Đập lớn Thế giới.[17/07/09]
Thư chào mừng của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải
VNCOLD đã thành công tại cuộc họp Chấp hành ICOLD Sofia (Bulgaria), 6/6/2008
Phó Thủ tướng khai mạc Hội thảo “ASIA 2008.
Tạo miễn phí và cách sử dụng hộp thư @vncold.vn
Website nào về Thủy lợi ở VN được nhiều người đọc nhất?
Giới thiệu tóm tắt về Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam.
Download miễn phí toàn văn các Tiêu chuẩn qui phạm.
Đập tràn ngưỡng răng cưa kiểu “phím piano".
Đập Cửa Đạt
Lời chào mừng
Qu?ng c�o