ĐỔI MỚI CĂN BẢN VỀ TÀI CHÍNH CHO
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC (GDĐH) VIỆT NAM
GS. Phạm Phụ
(Phần I)
Lễ tốt nghiệp năm 2012 tại Đại học Thủy lợi |
· Tại sao phải đổi mới căn bản về tài chính?
Năm 1994, Ngân hàng thế giới (WB) tuyên bố: “GDĐH đã lâm vào tình trạng khủng hoảng trên toàn thế giới”. Chính vì vậy, cải cách GDĐH cũng đã trở thành một hiện tượng phổ biến ở hầu hết các nước trong suốt gần 20 năm qua. Và đặc biệt là, cũng theo WB, các cuộc cải cách này đều có một “Chương trình nghị sự” (Agenda) cơ bản khá giống nhau, như có “mẫu số chung” ở hầu hết các nước là tập trung vào hai mảng về Tài chính và Quản trị, cho dù các nước có sự khác nhau khá lớn về hệ thống chính trị kinh tế, về trình độ phát triển kinh tế cũng như GDĐH. Thậm chí có nước như Mexico đã lấy cải cách tài chính làm khâu đột phá cho cải cách GDĐH.
Nguyên nhân của tình hình nói trên có rất nhiều, nhưng về mặt tài chính chủ yếu và phổ biến là do: (1) Xu thế phát triển nhanh quy mô nền GDĐH làm cho GDĐH trở thành “đại trà” mà không một ngân sách Nhà nước (NSNN) nào gánh chịu nổi, kể cả các Nhà nước Châu Âu phúc lợi; (2) Chi tiêu bình quân cho một sinh viên (SV) trong một năm, gọi là “Chi phí đơn vị” (Unit cost) đều đã tăng lên rất nhanh, nhanh hơn tốc độ phát triển của nền kinh tế () nhằm đảm bảo khả năng cạnh tranh của nền GDĐH; và (3) Qua nghiên cứu kinh tế GDĐH, đặc biệt là các đặc trưng của hàng hóa dịch vụ GDĐH, người ta cho rằng, “không có đủ cơ sở triết lý và kinh tế để buộc phải cung cấp tài chính cho GDĐH bằng NSNN” và xu thế chung là chuyển một phần, thậm chí toàn bột chi phí của GDĐH cho chính người học, dựa trên nguyên tắc, gọi là “User pay principle”. Đây là những thay đổi có tính nguyên lý, do đó phải có cải cách hay đổi mới cơ bản về tài chính cho GDĐH.
Với Việt Nam, Việt Nam nay đã tham gia vào WTO, đã định hướng theo cơ chế thị trường, Việt Nam không thể là một ngoại lệ đối với những biến đổi nói trên.
· CPĐV hợp lý
Trong tài chính cho GDĐH, câu hỏi đầu tiên là CPĐV bao nhiêu thì được xem là hợp lý để nền GDĐH có điều kiện tài chính tối thiểu nhằm đảm bảo khả năng cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa, cạnh tranh trong tổ chức đào tạo, thu hút thầy cô giáo giỏi cũng như cạnh tranh về chất lượng của nguồn nhân lực được đào tạo.
Ở Việt Nam, theo báo cáo của Bộ GD&ĐT, chi phí từ NSNN bình quân cho một SV ở ĐH công lập năm 2009 là 7,14 triệu Đ/ năm. Mức học phí bình quân khoảng 3 triệu Đ/ năm. Vậy CPĐV gần đúng là vào khoảng 10 triệu Đ/ năm, tương đương 550 USD/ năm. Còn qua khảo sát thực tế năm 2010, ở nhiều trường ĐH, kể cả ĐH vùng Đà Nẵng hay ĐH Cần Thơ và các ĐH ngoài công lập, CPĐV chỉ khoảng trên dưới 6 triệu Đ/ năm, tương đương khoảng 350 USD/ năm.
Trong khi đó, từ năm 2004 – 2005, mức CPĐV bình quân ở Mỹ đã là 22.000 USD/ năm, ở các nước OECD: 12.000USD/ năm, ở Đài Loan: 7.000 USD/ năm. Tất nhiên, không thể so sánh theo con số USD tuyệt đối vì còn phải tính đến trình độ phát triển và phải theo sức mua của đồng USD.
|