» Mở tất cả ra       » Thu tất cả lại
English and French
Tìm kiếm

Bài & Tin mới
Nghị định số 02/2024/NĐ-CP về việc chuyển giao công trình điện là tài sản công sang Tập đoàn Điện lực Việt Nam [17-01-2024]
Kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Cục Quản lý xây dựng công trình [26-12-23]
Chùm ảnh các công trình thuỷ lợi tiêu biểu ở VN 20 năm 2003-2023 [30-11-2023]
Danh mục các quy hoạch thủy lợi đã được phê duyệt [26-10-2023]
BÀN VỀ ĐỊNH HƯỚNG LẠI NGÀNH XÂY DỰNG THÔNG QUA CHUYỂN ĐỔI SỐ [26-10-2023]
Luật Đấu thầu số 22/2023/QH15 thay thế Luật Đấu thầu trước đây và có hiệu lực từ 01/01/2024 [15-10-2023]
Dự thảo TCVN 8731-20xx Phương pháp xã định hệ số thấm của đất bằng phương pháp đổ nước và múc nước trong hố đào và hố khoan [15-10-2023]
Đập Đắk N’Ting (Đắk Nông) trước nguy cơ bị vỡ [05-09-23]
QUYẾT ĐỊNH: Về việc hủy bỏ Tiêu chuẩn quốc gia [05-09-23]
Nghị định 35/2023/NĐ-CP [07-08-23]
Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ ĐỘNG ĐẤT Ở KONTUM NGÀY 14-07-2023 (2)[07-08-23]
HOẠT ĐỘNG HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2023 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM 6 THÁNG CUỔI NĂM [04-08-23]
Đô thị ngoại ô: cuộc chiến đất vùng rìa [25-07-23]
Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt Quy hoạch Phòng chống thiên tai và Thủy lợi 2021-2030 [25-07-23]
Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt Quy hoạch Phòng chống thiên tai và Thủy lợi 2021-2030 [25-07-23]
NHỮNG NỘI DUNG KHÔNG PHÙ HỢP VÀ KHÔNG ĐÚNG trong Tiêu chuẩn TCVN 8637:2021(về Yêu cầu kỹ thuật lắp đặt và nghiệm thu máy bơm)[14-07-23]
Ý kiến trao đổi về động đất ở Kontum [14-07-23]
Tiếp tục xảy ra 7 trận động đất tại Kon Plông (Kon Tum) [14-07-23]
Bàn thêm về dung tích phòng lũ ở các hồ chứa thủy lợi, thủy điện [13-07-23]
 Số phiên truy cập

81260553

 
Quản lý Qui hoạch
Gửi bài viết này cho bạn bè

Công tác thủy lợi phục vụ phát triển bền vững nuôi trồng thủy sản tỉnh An Giang.[14/01/08]
Hệ thống sông Hậu (80km), sông Tiền (100 km) và hàng ngàn km kinh rạch nội đồng đã tạo nên một hệ thống nuôi thuỷ sản đa dạng trên diện tích lớn so với các địa phương khác...

CÔNG TÁC THỦY LỢI PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN TỈNH AN GIANG

 

Sở Tài nguyên và Môi trường An Giang

An Giang là tỉnh đầu nguồn của sông Hậu và sông Tiền, là tỉnh duy nhất ở Đồng bằng sông Cửu Long sử dụng trọn 2 bên bờ dòng sông Hậu. Hệ thống sông Hậu (80km), sông Tiền (100 km) và hàng ngàn km kinh rạch nội đồng đã tạo nên một hệ thống nuôi thuỷ sản đa dạng và chiếm một diện tích lớn trong cơ cấu đất đai so với các địa phương khác trong toàn vùng. Do đó các ao nuôi thường nằm gần kề nguồn cấp nước và nước thải cũng được thải trực tiếp ra môi trường.

Theo số liệu điều tra đến ngày 10/4/2006: tổng diện tích tự nhiên của toàn tỉnh chiếm diện tích 340.623 ha, trong đó diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản là 1.356,82 ha, chiếm khoảng 0,4% tổng diện tích.

Theo số liệu thống kê đến ngày 10/4/2006: tổng số hộ đang nuôi thủy sản trong toàn tỉnh là 13.464 hộ, giảm 3,6% tương đương 498 hộ so cùng kỳ, trong đó nhiều nhất nuôi ao hầm 9.351 hộ (chiếm 69,5%), 1.897 hộ nuôi bè (chiếm 14,1%). So cùng kỳ số hộ nuôi cá hầm giảm 998 hộ, nuôi cá bè giảm 446 hộ. Tổng diện tích đang nuôi thủy sản là 1.836 ha (kể cả sản xuất giống), giảm 7,7 % tương đương 60 ha so năm 2004. Riêng nuôi cá lồng-bè quầng ngày càng kém thế cạnh tranh so với nuôi hầm nên số lượng bè đang giảm sút nhanh, hiện có 3.058 cái giảm gần 450 cái so cùng kỳ.

Trong thời gian vừa qua, do giá cá trên thị trường tăng cao, việc đào ao hầm nuôi cá gia tăng đột biến trong một thời gian ngắn (khoảng 3 tháng). Nhưng hiện nay việc đào ao tự phát có xu hướng giảm do giá cá tra, cá basa trên thị trường đang sụt giảm.

Một thực trạng khác hiện nay là hầu như tất cả nguồn nước thải phát sinh đều được thải vào nguồn nước mà không qua bất kỳ hình thức xử lý nào. Chất lượng nước ao nuôi thuộc dạng ô nhiễm nhẹ nhưng với một lượng nước rất lớn được xả vào dòng sông trong một thời gian lâu dài. Khả năng tự làm sạch của dòng sông trong thời gian tới sẽ suy giảm và như vậy, hậu quả là dòng sông dần dần bị ô nhiễm (ô nhiễm tích luỹ). Vấn đề này có khả năng tác động trở lại đến nghề nuoi thuỷ sản. Nhưng lần này hậu quả sẽ càng nghiêm trọng hơn. Một thực tế cần phải rút kinh nghiệm đối với phát triển làng bè thời gian trước kia. Chính sự phát triển tự phát, neo đậu bè dày đặc, đã làm chất lượng môi trường nước suy giảm cục bộ 1 số vùng nuôi. Kết quả  hiệu quả sản xuất giảm, chi phí sản xuất gia tăng, người nuôi không còn lãi, có hộ đã bị phá sản, phải lên bờ chuyển hướng sản xuất khác.

Theo tính toán sơ bộ, hàng ngày một lượng nước khổng lồ được thải ra môi trường do hoạt động nuôi cá: “ Với diện tích đất nuôi là 1.356,82 ha, diện tích mặt nước nuôi thuỷ sản 814,09 ha (60%), chiều cao ngập nước tính trung bình là 3 – 3.5 m, lượng nước thải dự kiến khoảng 28.493.220m3 (tháng bắt đầu - tháng thứ 2: chỉ thải ra 5%/ngày, tháng thứ 2 - 4: thải ra 20%/ngày, tháng thứ 4 - bắt cá: thải ra 30%/ngày) thải ra trên một diện tích 3.406 km2.

Hiện nay, một số vùng nuôi rải rác cặp theo sông Tiền và sông Hậu vẫn chưa có tác động lớn đến môi trường, do khả năng tự làm sạch của dòng sông, việc nuôi thuỷ sản vẫn còn đạt hiệu quả cao, chất lượng cá nuôi đạt loại tốt, đáp ứng cao thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên một số vùng nuôi nằm dọc theo các kênh rạch nhỏ, chất lượng nước đã có dấu hiệu ô nhiễm. Chính vì vậy chất lượng sản phẩm thuỷ sản đạt chưa cao, rất khó khăn đói với việc tìm thị trường xuất khẩu.

Vấn đề đặt ra làm sao vừa tăng cường phát huy tiềm năng  thuỷ  sản của tỉnh theo  quy hoạch sắp tới, đạt được mục tiêu phát trỉển kinh tế mà vẫn đảm bảo về mặt môi trường. Đó chính là quy hoạch phát triển thuỷ sản và xử lí môi trường. Quy hoạch thuỷ sản đảm bảo sản xuất khép kín, tiết kiệm năng lượng,  xử lí môi trường theo công nghệ phù hợp.

Hiện nay, công nghệ xử lí nước thải trong nuôi thuỷ sản cá nước ngọt với mật độ cao đang được nghiên cứu  và triển khai, tuy nhiên với số lượng các hộ nuôi xử lí rất hạn chế. Do đó rất cần thiết công nghệ xử lí nước thải đa dạng, vừa dễ thi công, ít tốn chi phí, dễ vận hành, ít tốn đất.

Ngoài các vấn đề trên ngành thuỷ sản cũng đang đối đầu với các thách thức sau khi gia nhập WTO.

-  Gia nhập WTO, xuất khẩu sẽ gia tăng, rào cản ngày càng lớn, rõ ràng vấn đề không chỉ dừng lại ở Doanh nghiệp chế biến được cấp quota mà liên quan đến toàn bộ khâu sản xuất, từ con giống, nuôi trồng, thức ăn, chế biến...

- Đối mặt với các xu thế và yêu cầu khắt khe của thị trường thủy sản thế giới về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm; bảo vệ môi trường; truy nguyên nguồn gốc sản phẩm.

-  Trước đây, vấn đề an toàn vệ sinh sản phẩm thủy sản quyết định ở sản phẩm cuối cùng, nhưng nay đã khác, phải "sạch" ngay từ khâu con giống, qui trình nuôi cho đến chế biến, nếu không sản phẩm sẽ không sạch.

- Các rào cản thương mại quốc tế đối với sản phẩm thủy sản xuất khẩu như: Rào cản thuế quan (thuế phần trăm; thuế quan đặc thù như hạn ngạch thuế quan, thuế đối kháng, thuế chống bán phá giá, thuế thời vụ, thuế bổ sung). Rào cản phi thuế quan (biện pháp cấm, hạn ngạch xuất nhập khẩu, giấy phép xuất nhập khẩu, thủ tục hải quan, an toàn thực phẩm, rào cản kỹ thuật...). ( Những rào cản này cũng sẽ tiếp tục là các thách thức trong thời gian tới).

- Quản lý chất lượng và an toàn vệ sinh thủy sản nguyên liệu chưa đồng bộ; chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cao; khả năng cạnh tranh giảm.

- Ngành thủy sản Việt Nam còn phải đối mặt với xu hướng giá thành giảm đối với sản phẩm thủy sản nuôi.

- Như vậy vấn đề môi trường trong nuôi trồng thuỷ sản không phải là vấn đề sau cùng, nó liên quan đến từng khâu sản xuất, chế biến, kỹ thuật nuôi, hoá chất thuốc sử dụng và đến cả giá thành sản xuất. Vì vậy đề xuất giải pháp xử lí môi trường phải nằm từ gốc của từng quy trình.

Giải pháp kinh tế và  môi trường:

   - Tăng cường áp dụng các quy định về bảo vệ môi trường trong chế biến, nuôi trồng thuỷ sản

   - Ngành thủy sản cần nỗ lực thực hiện nuôi sạch theo tiêu chuẩn an toàn vệ sinh quốc tế (GAP, HACCP);

   - Áp dụng các công nghệ và phương pháp quản lý để loại bỏ việc dùng các hóa chất, thuốc kháng sinh bị cấm trong nuôi trồng thủy sản. (Thực hiện được khẩu hiệu lâu nay vẫn nói nhưng làm chưa tốt: "sạch từ ao nuôi đến bàn ăn".)

   - Giảm dần các yếu tố tự phát trong quá trình sản xuất, xuất khẩu và tiêu thụ nội địa;

   - Cần liên kết tạo thế mạnh nâng cao sức cạnh tranh của ngành thủy sản mà phải liên kết trong xử lí môi trường .

   - Tổ chức khuyến khích phát triển cụm công nghiệp sinh thái – nuôi trồng - chế biến thuỷ sản theo mô hình mới, khép kín, hạn chế ô nhiễm môi trường. Tổ chức chế biến thuỷ sản, chế biến thức ăn gia súc, thuỷ sản, chế biến phụ phẩm, nuôi trồng thuỷ sản trong 1 cụm công nghiệp sinh thái. Hạn chế vận chuyển qua lại vừa tốn chi phí, vừa gây ô nhiễm môi trường xung quanh.

  Sơ đồ cụm công nghiệp  sinh thái nuôi trồng - chế biến thủy sản ở An Giang

 

Quy định bảo vệ môi trường trong tỉnh An Giang:

            - Quyết định số 894/2004/QĐ-UB ngày 25  tháng 5 năm 2004 của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang về việc ban hành Bản quy định tạm thời về chăn nuôi gia súc, gia cầm và thủy sản.

            - Công văn 967/UBND-KT ngày 30 tháng 3 năm 2007 của UBND tỉnh An Giang về việc chấn chỉnh việc tự phát đào ao nuôi cá và xây dựng dự án vùng nguyên liệu thủy sản

            - Công văn 324/STNMT-ĐĐ ngày 6/4/2007 của Sở Tài nguyên và Môi trường về hướng dẫn thủ tục về đất đai và bảo vệ môi trường.

            - Chỉ thị 13/CT-UB ngày 30/5/2007 của UBND tỉnh An Giang về tăng cường quản lý nhà nước và phát triển nuôi trồng thuỷ sản.

Đề xuất giải pháp tổng thể qui hoạch, đầu tư, chế độ chính sách, bảo vệ môi trường phục vụ phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững:

An Giang là tỉnh có sản lượng cá tra, basa xuất khẩu lớn nhất cả nước. Và nghề nuôi cá hiện nay chiếm tỉ trọng rất lớn trong tổng GDP của tỉnh. Diện tích vùng nuôi ngày càng tăng do lợi nhuận từ nuôi cá tăng cao trong thời gian gần đây. Những khó khăn hiện nay của tỉnh là chưa có bản đồ hiện trạng và đề án qui họach cụ thể. Chưa có công nghệ xử lý nước thải có hiệu quả … Do đó, xuất phát từ tình hinh địa phương, Sở TNMT có một số đề xuất sau:

- Xây dựng bản đồ hiện trạng nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tòan tỉnh.

- Lập qui hoạch chi tiết về phát triển vùng nuôi thủy sản từ 2007 – 2010 và phương hướng đến năm 2020.

- Đầu tư nghiên cứu các công nghệ xử lý nước thải ao nuôi và chuyển giao cho các địa phương áp dụng rộng rãi.

- Giới thiệu và nhân rộng các mô hình xử lý nước thải có hiệu quả cho các hộ nuôi thủy sản thông qua hội thảo chuyên đề hoặc tập huấn.

- Mở các lớp tập huấn cho các cán bộ chuyên môn trong lĩnh vực quản lý và xử lý môi trường, cụ thể là trong họat động nuôi thủy sản.

- Tập huấn cho hộ nuôi về qui trình nuôi cá sạch theo qui trình SQL.
(www.vncold.vn)

Đóng góp ý kiến về bài viết này 

Mới hơn bài này
Các bài đã đăng
Tiêu điểm
Biến đổi khí hậu và An ninh nguồn nước ở Việt Nam.[08/07/21]
Đại hội lần thứ IV, sự kiện lớn của Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam.[27/04/19]
Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam phấn đấu vì sự nghiệp phát triển thủy lợi của đất nước.[18/04/19]
Danh sách Hội viên tập thể đã đóng niên liễm 2018.[11/01/19]
Chùm ảnh Đại hội lần thứ 2 Hội Đập lớn Việt Nam.[13/08/09]
Nhìn lại 5 năm hoạt động của VNCOLD trong nhiệm kỳ đầu tiên.[10/08/09]
Thông báo về Hội nghị Đập lớn Thế giới.[17/07/09]
Thư chào mừng của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải
VNCOLD đã thành công tại cuộc họp Chấp hành ICOLD Sofia (Bulgaria), 6/6/2008
Phó Thủ tướng khai mạc Hội thảo “ASIA 2008.
Tạo miễn phí và cách sử dụng hộp thư @vncold.vn
Website nào về Thủy lợi ở VN được nhiều người đọc nhất?
Giới thiệu tóm tắt về Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam.
Download miễn phí toàn văn các Tiêu chuẩn qui phạm.
Đập tràn ngưỡng răng cưa kiểu “phím piano".
Đập Cửa Đạt
Lời chào mừng
Qu?ng c�o