Thi công kè Cát Bi –
Quang Lãng bờ hữu sông Hồng
| MỘT SỐ KINH NGHIỆM
XÂY DỰNG ĐÊ KHOANH VÙNG
PHÒNG CHỐNG LŨ LỤT
Phạm Đăng
Ấp Kỹ sư cao cấp
|
BBT. KSCC
Phạm Đăng Ấp là một chuyên gia
thuỷ lợi lâu năm, có nhiều kinh nghiệm, nhất là trong công tác phòng chống lũ
lụt. Tiếp theo bài trình bày những ý
kiến về Giải pháp phòng tránh lũ lụt ở miền Trung (mời xem
/Web/Ykien.aspx?distid=1086
), chúng tôi xin giới thiệu bài sau đây tuy được
viết từ nhiều năm trước nhưng những tư liệu và kinh nghiệm vẫn còn giữ tính
thời sự. Thuật ngữ “Đê khoanh vùng”
trong bài nay thường được gọi là “Đê bao”.
I. Quá trình hình thành, phát triển và tác dụng:
Đê khoanh vùng (ĐKV) là một loại công trình làm việc
vây quanh một vùng dân cư kinh tế, giữ không cho nước lũ, nước mặn tràn vào gây
thiệt hại; hoặc là ngăn vây nước lũ, nước mặn chỉ để nó gây thiệt hại ở một
vùng nhất định không cho lan tràn sang những vùng khác.
Từ thuở xa xưa để bảo vệ
sản xuất và cuộc sống, ông cha ta đã “tự cứu lấy mình” bằng cách cơi đắp những
bờ đất và trải qua thử thách với lũ bão, thủy triều những bờ đất đó được đắp
cao, to, rộng dần hình thành ĐKV ở nước.
Điểm qua các thời kỳ lịch
sử, ĐKV luôn luôn được xây dựng và phát huy vai trò của nó.
Thời kỳ phong kiến ngoài
việc sử dụng ĐKV để bảo vệ xóm làng, ruộng đồng còn kết hợp đắp thành lũy vừa
để chống kẻ thù, vừa để chống lũ lụt bảo vệ căn cứ, thủ đô của các nghĩa quân
và vua quan phong kiến như thành Cổ Loa (Đông Anh - Tp. Hà Nội).
Thời Pháp thuộc, đồng bằng
Bắc Bộ cũng đã đắp một số tuyến ĐKV quan trọng đề phòng những nơi hay bị vỡ đê
chính để bảo vệ đường giao thông, vùng kinh tế rộng lớn quan trọng, ví dụ:
Tuyến đê 99 từ dốc Thiết Trụ (huyện Khoái Châu) đến cống Chanh (Ân Thi, Hưng
Yên) để tránh đoạn đê Phi Liệt vỡ 18 năm liền, hay tuyến đê từ dốc Tầm Xá nối
vào quốc lộ số 2 đến cầu Phù Lỗ và đê sông Cà Lồ (Đông Anh - Tp. Hà Nội) nhằm
phòng tránh khi bị vỡ đê đoạn Hải Bối - Võng La không cho lũ tràn sang tỉnh Bắc
Ninh.
Những tuyến ĐKV ở đồng
bằng Bắc Bộ và khu 4 cũ đắp trong những năm 1965-1975 vừa có tác dụng hạn chế thiệt hại, vừa làm
giảm sự chênh lệch cột nước chỗ vỡ đê, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân ta
hàn khẩu đê nhanh khi bị máy bay Mỹ ném bom trong mùa mưa lũ. Ví dụ: ĐKV Hoàng
Diệu (Đông Hưng - Thái Bình) dài hơn 3,0Km
bao lấy đoạn đê tả Trà Lý (đầu cầu Bo - Tp. Thái Bình) là đoạn đê bị Mỹ
ném bom thường xuyên. Vào thời điểm lũ to, 18h ngày 13/08/1968 đoạn đê chính
đầu cầu bị vỡ rộng 42,0m, sâu 3,0m. Nhờ có ĐKV chênh lệch đầu nước từ 3,0m ban
đầu sau chỉ còn 0,80m nên chỉ trong 10 tiếng đồng hồ đã hàn khẩu xong, ngày
14/08/1968 bắt đầu tháo nước trong ĐKV qua các cống, đường tràn đã được tính
toán và bố trí từ trước, thiệt hại không đáng kể. Đê chính ở đầu cầu Bắc Giang,
mùa lũ năm 1969 bị máy bay Mỹ ném bom trúng; mặt đê chỉ còn lại 1 gờ đất rộng
0,50m nước đã tràn vào đồng; Song nhờ có ĐKV phía sau làm giảm đầu nước, cùng
với tinh thần dũng cảm của lực lượng cảm tử cứu đê bằng biện pháp đan người và
các tấm cửa, cọc cừ, phên tre đã hàn khẩu thành công ngay giờ đầu.
Trong mùa lũ tháng 8/1971,
đoạn đê Khê Thượng (tả sông Đà, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây) bị vỡ, nước lũ vào
làm vỡ đê sông Tích. Khi đó Hà Tây đã nhanh chóng dựa vào kênh nổi thuộc hệ
thống thủy nông Phù Sa làm ĐKV vừa cao và khép kín đã hỗ trợ đắc lực cho việc
hàn khẩu, giảm đầu nước: ban đầu từ 0,80m sau còn 0,4 - 0,5m bên bằng biện pháp
hàn khẩu thủ công cắm cừ và bao tải đất trong 3 ngày đêm đã lấp bịt xong chỗ vỡ
rộng 80,0m, sâu 4,0m, giải phóng đường giao thông Hà Nội - Sơn Tây, 03 huyện
Thạch Thất, Quốc Oai và Phúc Thọ không bị ngập lụt.
Năm 1985, lũ sông Đáy lên
cao làm vỡ đê quai xanh cống Biểu Thượng đang xây dựng trên đê tả Đáy (huyện Ý
Yên - Nam Định), nước chảy vào trong đồng tự do. Địa phương cũng nghĩ đến việc
dùng ĐKV, song ban đầu thiếu sự cân nhắc suy xét toàn diện nên đã dựa vào bờ mương chìm vừa nhỏ, vừa
thấp lại không khép kín (quá nhiều cầu, mương cắt ngang) và địa hình không
thuận, dung tích bụng chứa trong ĐKV quá nhỏ.
Vì vậy chẳng bao lâu mực nước dâng lên làm tràn bờ kênh, lúc này không
có cách nào để tôn cao và đắp to được do
lòng mương quá rộng, các cửa khẩu khác vừa rộng, vừa sâu khó lấp bịt vì vậy
buộc phải lùi về tuyến đường bộ (gần núi Gôi) ở phía sau gây nên sự bị động,
lãng phí.
II. Cách lựa chọn tuyến đê khoanh vùng đề
phòng vỡ đê:
Khi lựa chọn tuyến đê
khoanh vùng, nên dựa vào mấy nguyên tắc cơ bản sau đây:
1. Tuyến ngắn và khép kín nhưng bảo vệ được nhiều
điểm kinh tế quan trọng hoặc hạn chế thiệt hại ở mức thấp nhất.
2. Tận dụng tối đa những công trình sẵn có (như đê
cũ, đường bộ, đường sắt, kênh nổi, đồi núi, mô đất cao,.v.v.) để ít khối lượng,
thi công nhanh.
3. Cố gắng tránh những công trình quan trọng, nhà
cửa kiên cố, kênh rạch, đầm ao sâu, địa chất xấu,.v.v. nhằm giảm khối lượng, ít
tốn kém.
4. Đảm bảo thi công, bồi trúc, ứng cứu thuận lợi, dễ dàng, đảm bảo chất
lượng.
III. Xác định chiều cao, mặt cắt và chất
lượng ĐKV:
1. Về chiều cao:
Đến nay chưa có phương pháp tính toán nào thật cụ
thể và chính xác mà thường mang tính kinh nghiệm theo vùng và địa phương, thí
dụ:
- ĐKV có diện tích chứa nước lớn thì chiều cao thấp
hơn khi ĐKV có diện tích chứa nước nhỏ.
- Đối với vùng bị ảnh hưởng thủy triều (từ Quảng
Ninh đến Hà Tĩnh) cao trình ĐKV nên lấy tương ứng với mực nước báo động số 1 và
2.
- Đối với nơi lũ sông là chủ yếu thì cao trình ĐKV
nên lấy tương ứng với mức nước báo động 2 và 3.
- Trường hợp ĐKV phải đắp khi có sự cố bất ngờ xảy
ra ở vùng nào đó thì cao trình của nó nên tham khảo vết lũ đã xảy ra ở địa
phương trước đây hoặc cân nhắc theo cách chọn nêu trên mà quyết định.
Chú ý: Cao trình nêu ở trên chỉ là cơ sở ban đầu, còn khi thực tế xảy ra phải
phân tích quy mô, tính chất của lũ để quyết định huy động đắp cao thêm hay
không hoặc khi thấy lũ lên nhanh có nguy cơ
tràn toàn tuyến thì phải nhanh
chóng xác định bố trí sẵn một số điểm
cho tràn chủ động.v.v.. để đảm bảo an toàn cho ĐKV.
2. Mặt cắt ĐKV:
ĐKV ít khi sử dụng hoặc chỉ sử dụng tại thời điểm
nhất định nên không đòi hỏi phải đắp như đập đất, đê sông lớn; song cũng phải
đảm bảo yêu cầu nhất định. Qua thực tế nhiều ĐKV đã đắp thường chọn bề mặt
B=2-3,0m, mái thượng và hạ lưu bằng nhau m=1-1,5 và hầu như không đắp cơ (trừ
nơi quá yếu).
3. Về chất lượng ĐKV:
ĐKV tuy chỉ đóng vai trò hỗ trợ không làm việc
thường xuyên, song nó có nhiệm vụ là phải ngăn nước nên phải có độ ổn định và
chống thấm nhất định. Vì vậy việc đắp ĐKV phải chú ý cả về nền, đất đắp và đầm
nện.
-
Nếu đắp qua nền địa chất quá xấu như bùn, cát, gốc cây,.v.v.. trước khi đắp
phải xử lý nền hoặc tránh ra ngoài phòng hậu quả xấu khi đê phải làm việc.
-
Đất đắp: Đất thịt nói chung là được, không nên đắp các loại đất cát, đất bùn,
đất lẫn nhiều cỏ cây, rơm rạ, sỏi đá,.v.v..
-
Đắp phải có đầm nện bảo đảm liền khối để chống thấm, tránh tình trạng đổ đất
không đầm nện hoặc kê ba chồng đấu chạy theo khối lượng, khi hữu sự xử lý hết
sức khó khăn và không an toàn.
4. Quản lý, sử dụng
ĐKV:
Có đê rồi phải được quản lý chặt chẽ, tu bổ
thường xuyên, ngăn chặn kịp thời những hành vi vi phạm có và không có ý thức
của con người, động vật (chuột, cầy.. làm tổ), nếu không lúc sử dụng sẽ bị bất
ngờ (tràn, vỡ) mất hết tác dụng./. (www.vncold.vn)
|