» Mở tất cả ra       » Thu tất cả lại
English and French
Tìm kiếm

Bài & Tin mới
TÍNH TOÁN CÁC ĐẶC TRƯNG THỦY VĂN THIẾT KẾ [27/01/2024]
CÔNG TRÌNH THỦY LỢI - ĐẬP BÊ TÔNG VÀ BÊ TÔNG CỐT THÉP - YÊU CẦU THI CÔNG VÀ NGHIỆM THU [22/01/2024]
CÔNG TRÌNH THỦY LỢI - KẾT CẤU BÊ TÔNG VÀ BÊ TÔNG CỐT THÉP THỦY CÔNG - YÊU CẦU THI CÔNG VÀ NGHIỆM THU [20/01/2024]
Như thế nào là Trạm bơm lớn, trạm bơm nhỏ? [29/01/2024]
Quyết định số 20/QĐ-TTg về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể lưu vực sông Mã thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 [17-01-2024]
Quyết định số 21/QĐ-TTg về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể lưu vực sông Hương thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 [17-01-2024]
Quyết định số 22/QĐ-TTg về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể lưu vực sông Đồng Nai thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 [17-01-2024]
Nghị định số 02/2024/NĐ-CP về việc chuyển giao công trình điện là tài sản công sang Tập đoàn Điện lực Việt Nam [17-01-2024]
Kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Cục Quản lý xây dựng công trình [26-12-23]
Chùm ảnh các công trình thuỷ lợi tiêu biểu ở VN 20 năm 2003-2023 [30-11-2023]
Danh mục các quy hoạch thủy lợi đã được phê duyệt [26-10-2023]
BÀN VỀ ĐỊNH HƯỚNG LẠI NGÀNH XÂY DỰNG THÔNG QUA CHUYỂN ĐỔI SỐ [26-10-2023]
Luật Đấu thầu số 22/2023/QH15 thay thế Luật Đấu thầu trước đây và có hiệu lực từ 01/01/2024 [15-10-2023]
Dự thảo TCVN 8731-20xx Phương pháp xã định hệ số thấm của đất bằng phương pháp đổ nước và múc nước trong hố đào và hố khoan [15-10-2023]
Đập Đắk N’Ting (Đắk Nông) trước nguy cơ bị vỡ [05-09-23]
QUYẾT ĐỊNH: Về việc hủy bỏ Tiêu chuẩn quốc gia [05-09-23]
Nghị định 35/2023/NĐ-CP [07-08-23]
Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ ĐỘNG ĐẤT Ở KONTUM NGÀY 14-07-2023 (2)[07-08-23]
HOẠT ĐỘNG HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2023 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM 6 THÁNG CUỔI NĂM [04-08-23]
 Số phiên truy cập

81488219

 
Quản lý Qui hoạch
Gửi bài viết này cho bạn bè

Đã đến lúc trả nợ![21/01/08]
Thủ tướng đã có lần phát biểu: Việt Nam hoàn toàn trân trọng từng đồng vốn ODA và bảo đảm cam kết với các nhà tài trợ. Chính phủ sử dụng có hiệu quả nguồn vốn vay để phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo và có kế hoạch trả nợ để tránh cho con cháu thế hệ mai sau không phải mang món nợ của cha ông để lại”.

ĐÃ ĐẾN LÚC PHẢI TRẢ NỢ!

 

TS. Tô Văn Trường

Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam

 

Trong thời kỳ hội nhập, nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế đã hỗ trợ, giúp đỡ cho Việt Nam vay vốn để phát triển.  Liên tục trong 5 năm  (2002-2007), các nhà tài trợ quốc tế cam kết ODA cho nước ta, năm sau cao hơn năm trước. Đó là thông điệp vui nhưng cũng là nỗi suy tư, trăn trở  của nhiều người phải làm cái gì, làm như thế nào, khi nào để có thể sử dụng đồng vốn sao cho có hiệu quả nhất vì đồng tiền vay (mức nợ hiện nay của Việt Nam tương đương 31% GDP), ắt phải trả nợ sòng phẳng.

        Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có lần phát biểu công khai, minh bạch: ”Việt Nam hoàn toàn trân trọng từng đồng vốn

Úng ngập năm 2007 tại TP HCM

ODA và bảo đảm cam kết với các nhà tài trợ. Chính phủ sử dụng có hiệu quả nguồn vốn vay để phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo và có kế hoạch trả nợ để tránh cho con cháu thế hệ mai sau không phải mang món nợ của cha ông để lại”.

        Tuy nhiên, có một thứ “nợ” khác nữa ở nước ta, mà cụ thể là lãnh đạo thành phố Hồ Chí Minh đã “vay” của nhân dân quá lâu, được “báo nợ” nhiều lần qua các kỳ họp của Hội đồng Nhân dân thành phố và trên công luận nhưng chưa thấy trả, gây nên những bức xúc rất lớn trong xã hội- đó là bài toán cốt nền xây dựng.  

         TP. Hồ Chí Minh đang phải đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn, ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển kinh tế-xã hội, nổi cộm nhất là tai nạn giao thông, nạn kẹt xe, ngập lụt và ô nhiễm môi trường. Trong vòng 5 năm trở lại đây, mặc dù TP.HCM đã nỗ lực trong việc chống ngập úng, nhưng công tác này xem ra vẫn gặp nhiều khó khăn, do hàng năm phát sinh thêm các điểm ngập mới, đặc biệt là tại các khu vực đang đô thị hóa. Tính đến năm 2006, toàn thành phố còn 105 điểm ngập (47 điểm ngập do mưa, 51 điểm ngập do mưa kết hợp với triều, một số điểm ngập do không có cống). Các trường hợp ngập điển hình như ở khu vực Bùng binh Cây Gõ-Tân Hoà Đông-Bà Hom (quận 6), một số khu vực quận Bình Thạnh, một số khu vực quận 2, Ngã tư Bốn Xã (quận Bình Tân), kênh Ba Bò (quận Thủ Đức)… Trong tháng 11-2007 với đỉnh điểm là những ngày triều cường đã gây ra ngập triều trên diện rộng tại TP.HCM, không những gây thiệt hại về kinh tế, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt và sức khoẻ người dân, góp phần gia tăng tình trạng ách tắc giao thông của thành phố. Trong mọi nguyên nhân gây ngập như thế, tất thảy đều liên quan đến món “nợ” mà UBND TP. HCM phải trả cho người dân, đó là cốt nền xây dựng.   

             Theo ông Nguyễn Trọng Hòa- Giám đốc Sở Quy hoạch Kiến trúc TP.HCM phát biểu trong chuyên mục “Nói và làm” của truyền hình TP. HCM tháng 11/2007 là cốt khống chế xây dựng sẽ do Nhà nước xác định, còn cốt nền do các cơ quan quản lý dự án xác định chi tiết, cụ thể. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, lãnh đạo thành phố cho biết đến cuối tháng 3/2008 sẽ có cốt nền xây dựng cơ bản cho toàn khu vực TP.HCM trên nền bản đồ địa hình tỷ lệ 1/2.000. Hiện nay, Công ty Nikken Sekkei đang thực hiện dự án điều chỉnh quy hoạch chung toàn TP và sẽ tính toán luôn vấn đề cốt san nền. Đây là bài toán rất phức tạp, khó khăn không phải chỉ riêng với các nhà khoa học Việt Nam mà ngay cả đối với các chuyên gia tư vấn quốc tế. Tôi rất băn khoăn về cách tiếp cận, phương pháp luận của bài toán xây dựng cốt nền của thành phố vì năm 2005, TP. HCM đã công bố việc xác định cốt nền tỷ lệ 1/5.000 cho 2 quận Tân Bình và Tân Phú nhưng lại không sử dụng được trong thực tế. Sở dĩ lâu nay, thành phố gặp khó khăn, lúng túng trong bài toán xác định cốt nền là vì chỉ muốn xác định một mức cao độ cố định dựa theo cao độ địa hình, chưa quan tâm đúng mức đến khả năng bị ngập lụt khi các điều kiện về thủy văn thay đổi, đặc biệt do tác động của gia tăng đỉnh triều trong những năm gần đây. Bài toán cốt nền khá phức tạp và sẽ còn phức tạp hơn khi quy hoạch chống ngập cho thành phố chưa được phê duyệt, lại đòi hỏi phải có tầm nhìn xa trong bối cảnh điều kiện khí hậu ngày càng thay đổi, mực nước biển dâng.   

 

      Một số ví dụ cụ thể: Qua nghiên cứu, tôi nhận thấy tại giao lộ giữa đường An Dương Vương với đường số 3, trong bản đồ của thành phố ghi hiện trạng là 3,62 m, thiết kế trong bản quy hoạch xây dựng thành phố là 3,62 m (Hệ cao độ Hòn Dấu) nhưng thực tế đo lại là 3,91 m; Tại giao lộ Hòa Bình với Lũy Bán Bích (Hương lộ 14 cũ), bản đồ ghi hiện trạng 3,45 m, thiết kế 3,45 m nhưng thực tế 4,0 m; Tại giao lộ Thoại Ngọc Hầu với Lũy Bán Bích-Phú Thọ Hòa trong bản đồ ghi hiện trạng 4,7 m, thiết kế 4,7 m nhưng thực tế 5,06 m… Như vậy, có thể thấy tồn tại, khó khăn là điểm đo chính tại các đường lớn còn không chuẩn thì làm sao đòi hỏi có độ chính xác dẫn cốt vào các khu dân cư nằm sâu bên trong !?

           Cốt nền do cơ quan chuyên môn của thành phố thực hiện mới chỉ là cốt nền xây dựng khống chế, chỉ được thực hiện trên quy hoạch vùng và quy hoạch chung. Trên cơ sở cốt nền xây dựng khống chế, cốt nền xây dựng trong các quy hoạch chi tiết mới được hình thành. Điều đó có nghĩa là, các quận phải làm thêm một việc nữa: xây dựng cốt nền xây dựng trong các quy hoạch chi tiết của địa phương và đó mới là cơ sở để cấp cốt nền xây dựng cho các công trình xây dựng.

 

       Việc quy định cao trình của đường, nền là việc xác định độ cao nền mặt đất so với mặt nước biển để điều chỉnh dòng chuyển lưu, thoát nước ra biển  (Đây có thể xem như là một định nghĩa về cốt nền). Chính phủ đã có quy định trên 2 m, kèm theo bản đồ đo đạc cao trình cụ thể cho từng vùng. Thực tế hiện nay phát triển đô thị không dựa trên cốt nền (cao trình) với những đường đồng mức cụ thể (đường vẽ ranh giới cao thấp giữa các vùng đất). Hiện nay, các quận vẫn còn đang thực hiện đồ án quy hoạch chi tiết nên chưa thể áp dụng cốt nền xây dựng. Do chưa tính được cốt nền xây dựng cụ thể cho từng khu vực nên khi cấp phép xây dựng, không thể khống chế cao trình nền nhà được. Đây cũng là nguyên nhân của việc tạo ra các “cung bậc” nền các công trình "nhấp nhô" tại TP Hồ Chí Minh.  

  

            Theo tôi hiểu, thông thường để xây dựng một khu đô thị, cốt san nền phải có trước, sau đó mới triển khai các hạng mục khác. Nếu theo đúng quy chuẩn thì để xây dựng một dự án, phải có tối thiểu (và cũng là bắt buộc) 8 "hạng mục" được phê duyệt. Đó là quy hoạch cốt nền, quy hoạch sử dụng đất (còn gọi là quy hoạch kiến trúc), quy hoạch giao thông, quy hoạch mạng lưới điện, quy hoạch cấp nước, quy hoạch thoát nước, quy hoạch thông tin liên lạc và bản đồ tổng hợp đường dây, đường ống của toàn dự án. Do không quản lý cốt nền trong nhiều năm, thiếu sự phối hợp đồng bộ, nên bây giờ hàng ngàn dự án trên địa bàn thành phố được làm theo kiểu chắp vá. Đây cũng là nguyên nhân của nạn "đào lên, lấp xuống" tại TP Hồ Chí Minh. Như vậy, có thể thấy “Đề án xác định cốt nền” rất khó khả thi bởi vì muốn lập quy hoạch cốt nền thì phải căn cứ vào Quy hoạch tổng thể thoát nước của thành phố đã được Thủ tướng phê duyệt tháng 6/2001 (hiện nay, phải bổ sung, cập nhật mở rộng phạm vi nghiên cứu), nhưng trước đó từ rất lâu, nhiều khu vực đã được xây dựng, tốc độ đô thị hóa đã khiến cho hầu hết các quận huyện ngoại thành không còn chỗ trống để áp dụng cốt nền mới. Nói đúng hơn, là muốn sử dụng cốt nền mới thì phải "xới tung" toàn bộ các khu vực được xây dựng ít nhất là sau 1980 đến nay, có như thế mới đảm bảo đồng bộ cho toàn thành phố về cốt nền, đảm bảo không ngập úng. Còn nếu muốn "chữa cháy" thì sau khi quy hoạch cốt nền, phải khoanh vùng từng khu vực, xây dựng bờ bao cùng hàng loạt trạm bơm để bơm nước khỏi những khu vực bị ngập!

 

              Xin lưu ý: Toàn thành phố bị ảnh hưởng triều nên khi triều lan truyền vào khu vực nào đó thì đỉnh triều và tốc độ lan truyền phụ thuộc vào từng vị trí và phụ thuộc vào việc có các vùng trữ hay không. Nếu có các vùng trữ thì đỉnh triều giảm và làm bẹt triều. TP. HCM, với tốc độ phát triển như hiện nay sẽ không còn các khu đệm để trữ nước và làm chậm triều, vì thế để tính cốt nền cần giả định rằng triều chỉ còn lan truyền trong lòng sông (trường hợp xấu nhất). Từ đó, dùng mô hình tính toán mực nước triều cao nhất tại các điểm quan tâm. Hiện trạng địa hình và xây dựng của TP sẽ không thể “bới tung” tất cả, cho nên phải dựa trên mực nước cao nhất dọc sông để xem khu vực nào phải đắp bờ bao (hay đê bao vĩnh cửu). Trên cơ sở đó, cho phép cốt xây dựng cao hơn mực nước cao nhất tại điểm đó bao nhiêu có tính đến nước biển dâng và sự biến đổi trong một khoảng thời gian, ví dụ 50 - 100 năm tới.

 

         Một số vấn đề cần làm rõ:

         Về lý thuyết, cốt nền của mọi công trình có được từ công thức: 

 

 z = Z ± X[0]

 

         Trong đó:

          “0” qui ước là chuẩn gốc được ghi nhận vào thời điểm đặt trạm quan trắc hải văn quốc gia, chỉ khi có biến đổi khí hậu toàn cầu thì chỉ số hải văn bình quân của một chu kỳ là “X” tùy lớn/nhỏ hơn [0] sẽ được cộng/trừ vào “Z”. Thông tin này do cơ quan có chức năng của Nhà nước công bố định kỳ, có giá trị cho chu kỳ tiếp theo;

          “Z” là cốt chuẩn của một vùng miền hay của các tọa độ có cùng điều kiện địa lý tự nhiên, nó thay đổi khi “X” thay đổi và/hoặc địa chất thủy văn biến động bất thường diện rộng; “z” là cốt san nền của một vị trí địa lý xác định, ngoài phụ thuộc “Z” nó còn thay đổi khi địa chất thủy văn biến động bất thường diện hẹp.

              Đối với TP.HCM: ”Z” là vùng Đông Nam bộ, “z” là phạm vi Thành phố. Giả định điều kiện địa lý tự nhiên và chế độ địa chất thủy văn toàn vùng ổn định và thành phố có ba kiểu địa hình phân biệt được một cách rõ rệt thì sẽ có “z1”, “z2” và ”z3” tương ứng nhưng không thể có “z4”. Một số quận huyện cụ thể trên cùng địa hình sẽ sử dụng chung một trong ba cốt nền này. Trường hợp địa giới hành chính của một quận, huyện cụ thể nào đó nằm trên hai địa hình thì đơn vị hành chính này phải sử dụng hai cốt nền tương ứng. Lý thuyết chỉ giải quyết những gì thuộc về phổ biến, chưa biết TP.HCM có địa hình địa chất khác biệt thế nào với toàn vùng, do vậy, các nhà chuyên môn có trách nhiệm cần phải xem xét, kỹ lưỡng trước khi trình lãnh đạo quyết định.

              Công việc cấp bách tới đây, phải đề cập đến là vấn đề chuẩn gốc quốc gia. Có hai thông tin rất quan trọng mà cơ quan nào được Nhà nước giao nhiệm vụ theo dõi quản lý phải công bố rộng rãi để làm cơ sở xây dựng cốt san nền cho các đô thị, công trình giao thông và các công trình hạ tầng khác, đó là:

 

               (1) Bảng dẫn chiếu chuyển đổi cốt chuẩn của các khu vực vùng miền hay các cao độ từ hệ Mũi Nai làm chuẩn gốc sang hệ cao độ Hòn Dấu làm chuẩn gốc vào giờ “G” ngày “N” nào đó mà cơ quan có chức năng thực hiện việc chuyển đổi;  

               (2) Kết quả quan trắc đo đạc hải văn và địa chất khí tượng-thủy văn ở trạm Hòn Dấu và các trạm khu vực vùng miền trên phạm vi cả nước trong khoảng 20-30 năm qua.


         
Ngoài các ý kiến nêu ở trên, trong phạm vi bài viết này, trên cơ sở khoa học và thực tiễn, tôi xin đề xuất các bước đi và lời giải cụ thể cho tiến trình xây dựng bài toán cốt nền của TP. HCM như sau:

          Bước thứ nhất: Điều tra, khảo sát, phân tích đánh giá, xây dựng mô hình toán dựa theo địa hình và hệ thống kênh rạch tự nhiên với giả thiết là địa hình trống trải, chưa có đường xá, công trình, nhà cửa. Chọn thời điểm tính toán có lượng mưa và chế độ triều bất lợi như lượng mưa vào tháng 10, chế độ những ngày triều cường có dạng chữ M có đỉnh bất lợi nhất (Lớn nhất) với nhiều ngày triều đẩy nước vào và rất khó tiêu thoát trong khi thời gian chân triều rất ngắn. Kết quả tính toán của mô hình sẽ cho chúng ta các cao độ nước ngập ở tất cả các điểm trong trường hợp không có công trình được gọi là cao độ mực nước tự nhiên.

          Bước thứ hai: Đưa các công trình đã có hiện nay vào mô hình bao gồm hệ thống cống, kênh rạch, đường sá, công trình công cộng vv… và chạy lại mô hình toán với trường hợp lượng mưa và chế độ triều bất lợi. Xin lưu ý, phải phân tích nhiều tình huống để xác định trường hợp bất lợi có thể khác với trường hợp bất lợi đã có ở bước thứ nhất. Kết quả của mô hình sẽ cho ra cao độ mực nước hiện trạng. So sánh cao độ mực nước hiện trạng với cao độ mực nước tự nhiên sẽ thấy những điểm nào bị gia tăng ngập úng do tác động của các công trình gây ra.  

           Bước thứ ba: Đưa các công trình trong quy hoạch vào mô hình bao gồm hệ thống cống, đê bao, kênh rạch, đường sá, nhà cửa trong tương lai đến 2020, 2050 và chạy lại mô hình với trường hợp lượng mưa và chế độ thủy triều bất lợi. Trường hợp bất lợi nhất đối với điều kiện ngập úng ở TP. HCM ngoài yếu tố tự nhiên do mưa, thủy triều còn do xả tràn lũ của các hồ chứa ở thượng lưu như Dầu Tiếng (sông Sài Gòn), Trị An (sông Đồng Nai), Srock Phumiêng (sông Bé). Kết quả của mô hình sẽ cho ra cao độ mực nước tương lai chưa điều chỉnh.

           Bước thứ tư: Để đảm bảo tránh ngập lụt trong điều kiện tự nhiên, hiện tại và tương lai, phải chọn cốt nền tại mỗi điểm cao hơn cao độ mực nước lớn nhất của các phương án trong bước thứ nhất (tự nhiên), phương án trong bước thứ hai (hiện trạng) và phương án trong bước thứ ba (tương lai chưa điều chỉnh) nêu ở trên. Đây mới chính là cốt nền tham khảo.

          Bước thứ năm: Kiểm tra lại cốt nền tham khảo nói trên bằng cách nâng cao tất cả nền nhà và công trình ở TP. HCM cao hơn cốt nền này. Lúc đó, sẽ xảy ra hiện tượng mực nước dâng cao hơn nữa vì diện tích chứa nước và tiêu thoát nước bị thu nhỏ lại do nền nhà và công trình đã được nâng cao hơn mức ngập. Trong tính toán, cần lưu ý đến khả năng đất bị lún do khai thác nước ngầm quá mức trữ lượng cho phép. Thành phố Bangkok, Thái Lan là ví dụ điển hình về lún do khai thác nước ngầm. Kết quả tính sẽ cho ra mức nước ngập mới. Cần phải lặp lại tính toán bằng mô hình nhiều lần nghĩa là khi nâng cao nền nhà và công trình công cộng cho đến khi mực nước không còn lên cao được nữa, có nghĩa là lúc đó sẽ có mực nước tương ứng với cốt nền lý tưởng.

   

          Tuy nhiên, phải thấy rằng cốt nền lý tưởng này ở nhiều khu vực có thể rất cao so với hiện nay, trong khi điều kiện kinh tế không cho phép xây dựng theo cốt nền này. Do đó, chúng ta lại phải tìm phương án để hạ thấp cốt nền lý tưởng này xuống mức cốt nền khả thi. Các biện pháp có thể thực hiện là phải so sánh với các phương án trong quy hoạch phòng chống ngập lụt như làm đê bao, cống ngăn đỉnh triều, các trạm bơm tiêu tại số điểm ngập lụt nghiêm trọng và thường xuyên, kết hợp với việc mở rộng, nạo vét kênh rạch tiêu thoát. Tất cả các phương án này phải được tính toán lại để so sánh, tác động ảnh hưởng như thế nào đến cốt nền lý tưởng tại các điểm khác của thành phố. Các phương án đều dựa trên nền tảng chung là so sánh về kinh tế, xã hội và môi trường trên cơ sở phân tích đánh đổi (trade off analysis). Riêng về bài toán thủy lực có thể dựa vào mô hình thủy lực cho toàn vùng hạ lưu như: SMS, MIKE 11 (kết hợp với mô hình MIKE MOUSE tính đường ống trong nội thành),... của Viện Thủy lực và Môi trường Đan Mạch (DHI) hoặc VRSAP-SAL của Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam để đánh giá mức độ ảnh hưởng của cả hệ thống đối với TP.HCM cũng như xây dựng các điều kiện biên cho các khu vực tiêu cụ thể.  

 

Nói tóm lại: Hy vọng, các đề xuất trên đây liên quan đến cách giải bài toán cốt nền sẽ hữu ích cho những người có trách nhiệm của thành phố Hồ Chí Minh xem xét, tham khảo trong quá trình định hướng phát triển hay nói một cách nôm na là đã tìm ra nguồn vốn để “trả nợ” cho nhân dân. 

 

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 18 tháng 12 năm 2007

 

(www.vncold.vn)

 

Đóng góp ý kiến về bài viết này 

Mới hơn bài này
Các bài đã đăng
Tiêu điểm
Biến đổi khí hậu và An ninh nguồn nước ở Việt Nam.[08/07/21]
Đại hội lần thứ IV, sự kiện lớn của Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam.[27/04/19]
Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam phấn đấu vì sự nghiệp phát triển thủy lợi của đất nước.[18/04/19]
Danh sách Hội viên tập thể đã đóng niên liễm 2018.[11/01/19]
Chùm ảnh Đại hội lần thứ 2 Hội Đập lớn Việt Nam.[13/08/09]
Nhìn lại 5 năm hoạt động của VNCOLD trong nhiệm kỳ đầu tiên.[10/08/09]
Thông báo về Hội nghị Đập lớn Thế giới.[17/07/09]
Thư chào mừng của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải
VNCOLD đã thành công tại cuộc họp Chấp hành ICOLD Sofia (Bulgaria), 6/6/2008
Phó Thủ tướng khai mạc Hội thảo “ASIA 2008.
Tạo miễn phí và cách sử dụng hộp thư @vncold.vn
Website nào về Thủy lợi ở VN được nhiều người đọc nhất?
Giới thiệu tóm tắt về Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam.
Download miễn phí toàn văn các Tiêu chuẩn qui phạm.
Đập tràn ngưỡng răng cưa kiểu “phím piano".
Đập Cửa Đạt
Lời chào mừng
Qu?ng c�o