Mở rộng đầu tư thủy điện từ các thành phần kinh tế: chủ trương đúng, quản lý yếu
BBT. Vừa qua, PV Kiều Minh (báo ‘Nông thôn ngày nay’) đã phỏng vấn GS.TSKH. Phạm Hồng Giang, Chủ tịch Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam, Phó Chủ tich Hội Đập lớn Thế giới, về một số vấn đề liên quan đến đầu tư thủy điện từ các thành phần kinh tế. Dưới đây là các câu hỏi & trả lời.
1. Vừa qua, tại hội thảo về Thủy điện, có ý kiến cho rằng: “Chúng ta đã quá vội vàng và hầu như không có bất cứ một kịch bản nào được đưa ra trước khi phát triển các thủy điện một cách ồ ạt. Chúng ta phải đánh giá những sai lầm mà chúng ta đã gây ra, và cần phải có một lời giải thấu đáo, triệt để hơn cho vấn đề thủy điện”. Vậy theo ông, sai lầm lớn nhất nào chúng ta mắc phải trong việc phát triển thủy điện hiện nay?
Trả lời: Thủy điện đã phát triển mạnh ở nước ta trong vài thập kỷ trở lại đây, cả thủy điện lớn, vừa và nhỏ, đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển chung của đất nước với khoảng 35% tổng sản lượng điện. Tuy nhiên quá trình phát triển thủy điện vừa qua cũng cho thấy một số thiếu sót do chúng ta chưa xem xét, nghiên cứu cẩn thận. Thứ nhất là Qui hoạch thủy điện riêng rẽ, áp đặt, không xét đến việc khai thác tổng hợp nguồn nước mục đich nhằm sử dụng nước đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất trong lưu vực. Thứ hai là Coi nhẹ, thậm chí bỏ qua, tác động của việc thay đổi dòng chảy đến môi trường và dân sinh ở hạ du. Thứ ba là Thiếu năng lực và thiếu trách nhiệm trong quản lý qui hoạch và quản lý xây dựng thủy điện.
2. Tại sao thủy điện phát triển một cách ồ ạt (từ 1995 trở về đây đã có hơn 800 thủy điện, đã dấy lên phong trào nhà nhà làm thủy điện, ngành ngành làm thủy điện) mà lại không hề có một bộ quy tắc chuẩn cho việc xây dựng thủy điện? Phải chăng chúng ta đã quá dễ dãi trong phát triển thủy điện? Trách nhiệm của các Bộ, ngành liên quan ra sao: Từ Bộ Kế hoạch Đầu tư (nơi cấp phép), Bộ Xây dựng, Bộ Công thương?
Trả lời: Đúng là thiếu những thể chế nghiêm ngặt khi phê duyệt qui hoạch, dự án thủy điện. Trách nhiệm của các Bộ nêu trên quả thực là không rõ ràng, vừa chồng chéo vừa sơ hở, vừa khép kín, thiếu sự kiểm tra khách quan. Trong các Bộ có trách nhiệm quyết định đó, rất ít, cũng có thể nói là hầu như không có, người có chuyên môn về thủy lợi – thủy điện. Ấy là chưa nói đến các cấp địa phương được ủy quyền ở mức cao. Không có hướng dẫn, không có qui chế, ai muốn làm gì cũng được. Sự thiếu am hiểu về chuyên môn cũng là một trong các nguyên nhân gây ra tình trạng dễ dãi trong phê duyệt dự án thủy điện. Chưa nói đến những người không có chuyên môn thủy lợi, trong số kỹ sư thủy lợi cũng có người chuyên về quản lý tưới tiêu, có người chuyên về mạng lưới sông ngòi đồng bằng, có người chuyên về phòng tránh thiên tai, có người chuyên về môi trường nước,… và không phải ai cũng am hiểu xây dựng đập, nhất là gần đây luôn có những vật liệu và công nghệ mới. Khi xảy ra sự cố đập Sông Tranh 2, ngay cả nhiều người trong ngành mới tìm hiểu đến loại vật liệu bê tông đầm lăn.
3. Báo Nông thôn ngày nay vừa đưa thông tin tại một huyện Đông Giang (Quảng Nam) có tới 14 nhà máy thủy điện. Đây cũng không phải là trường hợp duy nhất. Điều này cho thấy dường như chính quyền địa phương cũng rất hào hứng với thủy điện và bỏ mặc những vấn đề như môi trường sinh thái, đời sống của người dân bị ảnh hưởng? (Theo tính toán, cứ với 1MW thủy điện sản xuất ra, có khoảng 16ha rừng bị mất)
Trả lời: Việc các cấp chính quyền nhiều nơi hào hứng với thủy điện có nhiều lý do, trong đó có động cơ từ lợi ích. Cần thực hiện nghiêm việc lấy ý kiến của dân trong vùng bị ảnh hưởng của dự án. Các nghiên cứu tác động môi trường phải được nghiên cứu đầy đủ và trong thiết kế dự án phải có phương án khắc phục. Xây dựng công trình cần diện tích nhất định. Tuy nhiên, mượn cớ làm thủy điện để phá rừng thì phải tiến hành điều tra và xét xử theo pháp luật.
4. Vấn đề xã hội hóa - tư nhân hóa thủy điện, theo ông có nên? Chính điều này là nguyên nhân gây ra tình trạng thủy điện phát triển ồ ạt, nằm ngoài tầm kiểm soát?
Trả lời: Phát triển thủy điện là cần thiết, nêu chưa nói là rất cần thiết. Đó là nguồn năng lượng sạch và tái tạo. Trong bối cảnh các nguồn năng lượng hóa thạch (than, dầu mỏ,..) đang cạn dần, các nhà máy điện hạt nhân tiềm ẩn nguy cơ thiếu an toàn, người ta đặc biệt chú trọng đến các nguồn năng lượng tái tạo, trong đó có thủy điện. Ở nhiều nước phát triển, nguồn thủy năng hầu như đã được khai thác triệt để, thì hiện nay, để thay thế dần điện hạt nhân, bên cạnh việc đầu tư lớn cho các dự án điện gió, điện mặt trời, điện sóng biển,… người ta đang lập các phương án nâng cao công suất thủy điện bằng cách tôn cao các đập hiện có và nang cao hiệu suất thủy điện nhờ những thiết bị hiện đại. Thủy điện đem lại nhiều lợi ích và vì thế, có thể nói rằng chủ trương mở rộng đầu tư thủy điện từ các thành phần kinh tế là đúng. Chỉ có việc quản lý sự đầu tư này yếu kém mà thôi.
5. Nhiều tỉnh, địa phương thừa nhận thủy điện đem lại lợi ích trước mắt cho tỉnh (tăng GDP) nhưng lại để lại hậu quả lâu dài (người dân mất đất, sinh thái mất rừng…). Làm sao để dung hòa được cả hai yếu tố này?
Trả lời: Cân nhắc giữa lợi ích và thiệt hại của thủy điện phải được xem xét kỹ lưỡng, chính xác và hết sức khách quan trong quá trình chuẩn bị và phê duyệt dự án.
6. Theo GS, có nên có cơ chế phối hợp xả lũ, giữa các thủy điện có hồ chứa trên cùng dòng để tránh tình trạng mạnh ai nấy xả, gây ngập lụt thiệt hại nặng nề cho người dân ở hạ nguồn?
Trả lời: Khí hậu ở nước ta có mùa khô và mùa mưa phân biệt rất rõ. Hơn 70% lượng mưa tập trung trong mùa mưa mà phần lớn lại chỉ tập trung trong vài ba tháng. Hàng năm, phòng tránh là nhiệm vụ lớn và cấp bách. Đập là công trình điều tiết dòng chảy quan trọng nên nhất thiết phải góp phần giảm nhẹ lũ cho hạ du. Xả lũ vào thời điểm nào, với lưu lượng bao nhiêu đều phải được xác định trong ‘Qui trình vận hành hồ chứa’. Nếu có nhiều đập trong lưu vực và nhất là trên cùng một dòng sông thì phải lập ‘Qui trình vận hành liên hồ chứa’. Ngay khi bắt đầu vận hành, chúng ta đã có Qui trình vận hành hồ Hòa Bình trong mùa lũ. Qui trình này được điều chỉnh, sửa đổi một số lần để hoàn thiện thêm và phù hợp với thực tế luôn biến đổi. Qui trình đã được thực hiện tốt, công trình phát điện và chống lũ có hiệu quả.
7. Nhiều thủy điện chỉ làm tăng thêm lũ vào mùa mưa và tăng thêm hạn vào mùa khô. Người ta đã nói về tính văn hóa trong xây dựng thủy điện, đặc biệt là trách nhiệm với người dân khi thủy điện quyết định xả lũ. Theo ông, luật có nên quy định cụ thể trách nhiệm bồi thường cho dân mỗi khi thủy điện xả lũ làm thiệt hại cho người dân?
Trả lời: Nói rằng thủy điện làm tăng thêm lũ vào mùa mưa và tăng thêm hạn vào mùa khô thì có phần ‘oan’ cho thủy điện. Đúng ra phải nói rằng nếu chỉ nhằm mục tiêu phát điện thì hồ chứa thủy điện sẽ không góp phần giảm nhẹ lũ về mùa mưa và giảm hạn hán trong mùa khô. Mấy năm nay luôn xảy ra tranh luận về việc xả nước hồ khi lũ về có làm cho lũ hạ du lớn hơn lũ tự nhiên? Câu trả lời thật đơn giản. Nếu sau lũ, mức nước hồ cao hơn so với lúc trước lũ thì một phần nước lũ đã được giữ lại trong hồ, như vậy là hồ đã làm giảm nhẹ lũ cho hạ du. Ngược lại, nếu sau lũ, mức nước hồ hạ thấp hơn so với lúc trước lũ thì một phần nước hồ đã được xả xuống hạ du kèm theo lũ tự nhiên, làm tăng lũ ở hạ du.
Hiện nay, mọi hoạt động ở hạ lưu vẫn giữ như trước khi có đập, thậm chí dân cư còn đông hơn, nhiều công trình hạ tầng còn được xây dựng thêm mà không kể đến tình huống bị ngập lụt do xả lũ của hồ. Người thiết kế chỉ tính lưu lượng xả để chọn kích thước cho đập tràn chứ không chú ý gì đến những đề phòng cần thiết ở hạ du. Lưu lượng xả của hồ trong thời gian qua thường thấp hơn nhiều so với lưu lượng được phép xả theo thiết kế nhưng đã gây úng ngập lớn ở hạ du. Ví dụ như hồ Dầu Tiếng (Tây Ninh) khi lũ lớn có thể phải xả 2800m3/s, nhưng mới xả khoảng 600m3/s thì đã gây lụt lớn ở hạ du. Năm 2010, hồ Kẻ Gỗ xả khoảng 500m3/s đã gây ngập lớn cho Quốc lộ 1, trong khi nếu có lũ rất lớn tì hồ phải xả 1500m3/s. Do thiếu những qui dịnh đầy đủ và cụ thể cho vận hành hồ chứa như vậy nên khó phân định trách nhiệm khi xảy ra những thiệt hại ở hạ du do xả lũ.
|