Góp ý Dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi)
GS TSKH Nguyễn Đức Ngữ
Trung tâm KHCN Khí tượng, Thủy văn và Môi trường
Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam
Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) phải kế thừa nội dung toàn diện và không phá vỡ cấu trúc của Luật Tài nguyên nước 1998
(Dự thảo tiếp thu ý kiến của các Đoàn đại biểu quốc hội)
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có báo cáo “ Tổng kết , đánh giá tình hình thi hành Luật Tài nguyên nước năm 1998 và những kiến nghị sửa đổi ,bổ sung”tháng 7 năm 2011, làm cơ sở cho việc soạn thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Báo cáo đã nêu khá toàn diện những kết quả đạt được sau 12 năm thi hành Luật trong các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước ở các lĩnh vực chủ yếu, công tác phòng, chống, khắc phục hậu quả lũ, lụt và tác hại khác do nước gây ra, công tác bảo vệ tài nguyên nước, hoạt động khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi và công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước. Báo cáo cũng nêu lên một số tồn tại, bất cập và những nguyên nhân chính của những tồn tại, bất cập ấy. Cuối cùng là kiến nghị những vấn đề chính cần sửa đổi, bổ sung Luật Tài nguyên nước. Tuy nhiên, 5 nội dung được nêu lên về những tồn tại, bất cập đều là “thiếu quy định cụ thể” và/hoặc “chậm ban hành văn bản hướng dẫn thi hành”. Điều đó có nghĩa là trong Luật Tài nguyên nước 1998, những quan điểm, nguyên tắc, chủ trương, chính sách của Nhà nước có tính pháp luật về những nội dung nêu trên đều đã được thể hiện rõ. Chẳng hạn, “Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về tài nguyên nước và mọi hoạt động bảo vệ, khai thác sử dụng tài nguyên nước, phòng chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra trong phạm vi cả nước” ( khoản 2, điều 6); “Cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, , tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, và mọi cá nhân có trách nhiệm thi hành pháp luật về tài nguyên nước” ( khoản 5, điều 4); “Việc bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra phải tuân theo quy hoạch lưu vực sông đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, bảo đảm tính hệ thống của lưu vực sông, không chia cắt theo địa giới hành chính”(khoản 1, điều 5); “Tổ chức, cá nhân khai thác , sử dụng nguồn nước phải tuân theo các quy định về phòng, chống suy thoái, cạn kiệt nguồn nước”( khoản 2, điều 11); “ Nghiêm cấm việc đưa vào nguồn nước các chất thải độc hại, nước thải chưa xử lý hoặc xử lý chưa đạt tiêu chuẩn cho phép theo quy định của pháp luật bảo vệ môi trường”(khoản 3, điều 13); “ Nghiêm cấm các hành vi gây bồi lấp dòng đẫn, san lấp ao, hồ công cộng trái phép”(khoản 2, điều 17); “ Nghiêm cấm mọi hành vi làm suy thoái, cạn kiệt nghiêm trọng nguồn nước, ngăn cản trái phép sự lưu thông của nước; phá hoại công trình bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước…”( điều 9); “Chính phủ quy định cụ thể việc điều hòa, phân phối tài nguyên nước” (đoạn 2, khoản 2, điều 20) v.v. Các quy định cụ thể về 5 nội dung báo cáo nêu ra đã được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật như báo cáo trên đã trình bày trong điểm 1, mục V của báo cáo. Việc “một số văn bản chậm ban hành” hoặc “thiếu một tổ chức đủ mạnh” hay “lực lượng cán bộ mỏng”…mà báo cáo chỉ ra không phải là thiếu sót của Luật. Ngay cả một số nhận định trong báo cáo như “chưa có ngân hàng dữ liệu tài nguyên nước quốc gia” hay “ các quy định mới chỉ chú trọng về bảo vệ chất lượng nước và cũng chỉ chú trọng đối với nước mặt” hoặc “chưa có quy định cụ thể để bảo vệ số lượng nước, phòng, chống suy thoái, cạn kiệt nguồn nước”; “chưa có kế hoạch điều hòa, phân bổ nguồn nước, thiếu sự điều phối chung trên các lưu vực sông”…cũng không phải do thiếu sót trong Luật. Thực tế là tại các khoản 1, điều 6, khoản 1,2,3,điều 12, khoản 2, điều 11,và khoản 1 và 2, điều 20 đều đã có quy định riêng về những nội dung nêu trên.
Từ những nhận xét nêu trên, tôi cho rằng Luật Tài nguyên nước năm 1998 là khá toàn diện, đầy đủ. Thiếu sót chính có thể là thiếu quy định cụ thể về chế tài hoặc chưa đủ chi tiết ở một số nội dung cần được bổ sung trong Luật sửa đổi. Những tồn tại, bất cập trong thời gian qua chủ yếu ở khâu tổ chức, quản lý, điều hành trong thực thi Luật của các cơ quan chủ quản và chính quyền các cấp, bao gồm cả việc ban hành các văn bản hướng dẫn, quy chế, cơ chế thực hiện. Điều đó làm nảy sinh những vấn đề bức xúc, nổi cộm, gây tranh cãi hoặc khó xử lý trong thực tiễn. Vấn đề mới phát sinh có tính khách quan duy nhất là tác động của biến đổi khí hậu đến nguồn nước, bao gồm cả nguồn nước nội địa và nguồn nước từ ngoài biên giới lãnh thổ đến, cả nguồn nước trên đất liền và nguồn nước trên vùng biển nước ta, cùng những lĩnh vực liên quan.
Như vậy, cách tiếp cận hợp lý để dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) là dựa trên sơ sở Luật Tài nguyên nước năm 1998, thực hiện việc sửa đổi, bổ sung những nội dung cần thiết. Luật Tài nguyên nước năm 1998 có 75 điều, về cơ bản cần được giữ nguyên. Việc sửa chữa, bổ sung chủ yếu ở các khoản thuộc 75 điều đó. Mức độ quy định cụ thể và chi tiết cần được cân nhắc kỹ cho hợp lý, tránh lẫn với các quy phạm hoặc hướng dẫn chuyên môn, kỹ thuật, có thể sẽ thay đổi theo trình độ phát triển và ứng dụng của khoa học, công nghệ trên thế giới và ở nước ta. (thí dụ: quy phạm về điều tra cơ bản, hướng dẫn quy hoạch tài nguyên nước …) và không làm mất cân đối giữa các chương. Thực tiễn cho thấy, dù quy định chi tiết đến đâu cũng không bao quát được mọi khía cạnh của vấn đề, nói cách khác là càng quy định chi tiết càng thấy thiếu, hơn nữa cũng không thay thế được các văn bản dưới Luật. Điều này đã thể hiện ngay trong văn bản dự thảo ở cuối rất nhiều điều là các khoản quy định “Chính phủ hoặc Bộ…quy định cụ thể” và một điều ở cuối Luật.
Việc thay đổi quá nhiều điều, khoản có thể làm thay đổi cấu trúc của Luật hiện hành, dẫn đến hiểu nhầm về một Luật mới là không cần thiết và không nên làm vì có thể ảnh hưởng đến tâm lý của các nhà đầu tư, các doanh nghiệp và các hộ sử dụng nước.
Trên đây là một vài suy nghĩ mạo muội với mong muốn trao đổi, đóng góp để dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) đạt chất lượng cao nhất có thể.
|