» Mở tất cả ra       » Thu tất cả lại
English and French
Tìm kiếm

Bài & Tin mới
Nghị định số 02/2024/NĐ-CP về việc chuyển giao công trình điện là tài sản công sang Tập đoàn Điện lực Việt Nam [17-01-2024]
Kỷ niệm 20 năm ngày thành lập Cục Quản lý xây dựng công trình [26-12-23]
Chùm ảnh các công trình thuỷ lợi tiêu biểu ở VN 20 năm 2003-2023 [30-11-2023]
Danh mục các quy hoạch thủy lợi đã được phê duyệt [26-10-2023]
BÀN VỀ ĐỊNH HƯỚNG LẠI NGÀNH XÂY DỰNG THÔNG QUA CHUYỂN ĐỔI SỐ [26-10-2023]
Luật Đấu thầu số 22/2023/QH15 thay thế Luật Đấu thầu trước đây và có hiệu lực từ 01/01/2024 [15-10-2023]
Dự thảo TCVN 8731-20xx Phương pháp xã định hệ số thấm của đất bằng phương pháp đổ nước và múc nước trong hố đào và hố khoan [15-10-2023]
Đập Đắk N’Ting (Đắk Nông) trước nguy cơ bị vỡ [05-09-23]
QUYẾT ĐỊNH: Về việc hủy bỏ Tiêu chuẩn quốc gia [05-09-23]
Nghị định 35/2023/NĐ-CP [07-08-23]
Ý KIẾN TRAO ĐỔI VỀ ĐỘNG ĐẤT Ở KONTUM NGÀY 14-07-2023 (2)[07-08-23]
HOẠT ĐỘNG HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2023 VÀ PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM 6 THÁNG CUỔI NĂM [04-08-23]
Đô thị ngoại ô: cuộc chiến đất vùng rìa [25-07-23]
Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt Quy hoạch Phòng chống thiên tai và Thủy lợi 2021-2030 [25-07-23]
Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt Quy hoạch Phòng chống thiên tai và Thủy lợi 2021-2030 [25-07-23]
NHỮNG NỘI DUNG KHÔNG PHÙ HỢP VÀ KHÔNG ĐÚNG trong Tiêu chuẩn TCVN 8637:2021(về Yêu cầu kỹ thuật lắp đặt và nghiệm thu máy bơm)[14-07-23]
Ý kiến trao đổi về động đất ở Kontum [14-07-23]
Tiếp tục xảy ra 7 trận động đất tại Kon Plông (Kon Tum) [14-07-23]
Bàn thêm về dung tích phòng lũ ở các hồ chứa thủy lợi, thủy điện [13-07-23]
 Số phiên truy cập

81277674

 
Quản lý Qui hoạch
Gửi bài viết này cho bạn bè

Thư ngỏ gửi Thủ tướng về thuỷ lợi phí.
Quản lý thuỷ lợi là hết sức quan trọng để phát huy hiệu quả đầu tư xây dựng thuỷ lợi, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong lĩnh vực rộng lớn này có vấn đề "Thuỷ lợi phí". Việc thu thủy lợi phí đã được thực hiện từ nhiều thập kỷ và được qui định trong Pháp lệnh Bảo vệ và Khai thác công trình thuỷ lợi. Gần đây, một vài địa phương có chủ trương bỏ thuỷ lợi phí. Một số đại biểu quốc hội đã hỏi Chính phủ và Bộ Nông nghiệp & PTNT về việc này. Hiện có nhiều ý kiến khác nhau. Xin giới thiệu dưới đây nội dung bức thư ngỏ của ông Nguyễn Xuân Tiệp, nguyên Phó Cục trưởng Cục Thuỷ lợi (Bộ Nông nghiệp & PTNT), chuyên gia lâu năm về quản lý thuỷ lợi, gửi Thủ tướng Chính phủ.

                                                Hà Nội, ngày 27 tháng 11 năm 2006

 

                                               Kính gửi : Ông Nguyễn Tấn Dũng

                                                                Thủ tướng Chính Phủ

 

 Qua Đài tuyền hình Việt nam, mọi người dân được nghe trực tiếp Đại biểu Quốc hội chất vấn và trả lời chất vấn của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ NN và PTNT ( thành viên của Chính phủ ) về lĩnh vực thủy lợi phí..

 

 Đây là vấn đề nhạy cảm, tồn tại trong nhiều thập kỷ, các chuyên gia, cán bộ đã tốn nhiều công sức, giấy mực nghiên cứu giải trình..Từ năm 1949 đến nay Nhà nước đã có nhiểu văn bản qui đinh về thủy lợi phí. Kết quả đạt được về thủy lợi phí là rất đáng kể, không chỉ về tài chính mà cả về nhận thức của người dân, tính cộng đồng, công bằng xã hội..thông qua công tác thủy lợi. .  ..

 

Nhưng sau khi nghe 2 đại biểu Quốc hội của tỉnh Thái bình chất vấn và ý kiến trả lời của Bộ trưởng Bộ NN và PTNT, nhiều người, nhất là cán bộ, công nhân trực tiếp quản lý khai thác công trình thủy lợi, các chuyên gia trong và ngoài nứớc đang thực hiện các dự án thủy lợi có nhiều suy nghĩ, thậm chí rất lo lắng…

Với tư cách là người dân, quan tâm đến chính sách này của Đảng và Nhà nước xin được phép trình bày với Thủ tướng một số ý kiến của mình về vấn đề này như sau : 

 

1,  Hầu hết các Quốc gia đều coi nước từ công trình thủy lợi là loại hàng hóa “đặc biệt”, là một trong các chi phí đầu vào của sản phẩm nông nghiệp có tưới ( tương tư như điện, phân, giống, các loại vật tư khác) mà người dùng phải trả. Nhưng mỗi một quốc gia đều có chính sách riêng ( trực thu, gián thu thủy lợi phí, hầu hết các nước, Chính phủ có chính sách hỗ trợ đầu tư ban đầu, không thu hồi vốn, hỗ trợ kinh phí cho sửa chữa lớn.., kinh phí quản lý vận hành, duy tu bảo dưỡng huy động từ người sử dụng nước), nhưng tất cả đều có chung một mục đich : thực hiện chính sách thủy lợi phí là một biện pháp quan trọng cải thiện được nguồn nước đang thiếu hụt, nhờ tiết kiệm nước, đồng thời giảm được chi phí, đảm bảo công trình  ít hư hỏng, xuống cấp, đảm bảo công bằng xã hội, trên cơ sở phát huy vai trò của cộng đồng (PIM)

 

 Đối với nước ta thì nông nghiệp có một vị trí hết sức quan trọng, nên nhà nước có chính sách về giá nước riêng đối với nông nghiệp, thông qua chính sách thủy lợi phí. ( Sắc lệnh số 68-SL, 18/6/1949, Nghị định 141-CP, 26/9/1963, Nghị định 112/HĐBT, 25/8/1984, Luât TNN-1998, Pháp lệnh khai thác và bảo vệ CTTL (sửa đổi) 4/4/2001 , Nghị định 143/2003/ND-CP, 28/11/2003…) Nhà nước chỉ thu thủy lợi phí ở mức hỗ trợ cho chi phí thường xuyên.. Các chi phí sửa chữa lớn, tiền điện tiêu úng, tiền điện chống hạn vượt định mức, khắc phục thiên tai, nâng cấp khôi phục công trình.. đều do Nhà nước bao cấp ( trên 50% so với tổng chi phí). Đặc biệt là Nhà nước không thu hồi vốn đầu tư ban đầu Đó là một chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nướcđối với nông dân từ trước tới nay theo phương châm “ Nhà nước và nhân dân cùng làm”..

 

 Riêng Nghị định 143/NĐ/CP của Chính phủ ban hành ngày 28/11/2003 trong đó có qui định mức thu thủy lợi phí đối với tất cả các đối tượng sử dùng nước, nhằm giảm bớt mức thu đối với đối tượng sử dụng nước tưới cây lương thực (nông dân) và đảm bảo công bằng trong việc sử dụng nước từ công trình thủy lợi ( Mức thu vẩn nặng bao cấp,nhất là đối với nông nghiệp,  tương đương với Nghị định 112/HĐBT, 1984, chỉ khác là thu bằng tiền theo giá thóc hiện nay )

 

Hiện nay nhiều tỉnh đã thực hiện Nghị định này , song một số tỉnh, nhất là “tỉnh giàu” thì chưa thực hiện, nên chưa thu thủy lợi phí từ các đối tượng sử dụng nước trong hệ thống thủy lợi dùng để phát điện, nuôi trồng thủy sản, nước cho sinh hoạt, nước cho sản xuất công nghiệp, giao thông, du lịch,….chỉ mới thu TLP từ nông dân sản xuất lúa là không công bằng, nhưng kết quả thu được đã có

thêm vốn chi cho vận hành duy tu bảo dưỡng công trình, trả tiền điện bơm nước..

Chỉ riêng tỉnh Thái bình Chưa thực hiện NĐịnh 143 nên chưa thu Thủy lợi phí từ các đối tượng khác như nướcsử dụng  cho các khu công nghiệp, nước sinh hoạt, nuôi thủy sản lấy từ các hệ thống thủy lợi…( như đại biểu QH tỉnh Thái bình đã chất vấn) nhưng hàng năm đã thu được tương đương trên 40 tỷ đồng ( chưa tính đến phần Tỉnh hỗ trợ..). Thanh hóa 78 tỷ đồng ( Ở Thanh hóa thì  từ trước tới nay chưa thu được  TLP của thủy điện Bàn thạch do ngành điện chây ỳ ), các tỉnh ĐBSCL, Nhà nước chỉ thu mức tạo nguồn ( rất thấp), nhưng nhiều tỉnh đã thu tốt, như Tiền giang đã thu đạt 13 tỷ đồng. Vĩnh long 12 tỷ..( đạt tỷ lệ 100%) Nhiều tỉnh, huyện  khác thì thủy lợi phí là nguồn thu quan trọng để đảm bảo cho công trình ( phần Nhà nước quản lý ) không xuống cấp.( Phần công trình do dân quản lý thông qua tổ chức Hợp tác xã, Hội, tổ, đội..quản lý thu theo qui định và thỏa thuận riêng với dân ) Đến nay cả năm thủy lợi phí thu được trên phạm vi cả nước đã đạt gần 800 tỷ đồng/1500tỷ đồng. Số tiền thủy lợi phí thu được của cả nước quả là không lớn lắm ( nếu so với tổng ngân sách nhà nước), nhưng đối với từng tỉnh thì không phải là nhỏ, Vì vậy nếu bỏ TLP thì liệu các tỉnh có cấp bù nổi không ? ( Thái bình hàng năm có thể có gần 50 tỷ đồng để cấp ? ) Đấy là chưa nói đến việc tác động xấu đên ý thức sử dụng nước, bảo vệ công trình của người dân ( đây mới là vấn đề mấu chốt của Thủy lợi phí )

 

2,  Theo điều tra ở một số tỉnh như Nghệ an, Hà tĩnh, Quảng nam, Khánh hòa ..thì nông dân đã nhận thức được thủy lợi phí là chi phí tương tự phân, giống, điện, nhưng đã được nhà nước bao cấp.., họ không phàn nàn mức thủy lợi phí cao hay thấp, mà họ chỉ phàn nàn là trong khi cấp nước cho nông dân không đạt yêu cầu cả về chất, lượng kém, chưa kịp thời vụ…ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng, nhưng vẩn thu thủy lợi phí của nông dân ở mức cao. Nhiều người đã chỉ ra hiện tượng : người dùng nhiều nước(vùng đầu kênh lãng phí) và người dùng ít nước ( vùng cuối kênh khô hạn) đều trả thủy lợi phí như nhau là không công bằng. Đặc biệt trên địa bàn xã việc quản lý còn “bỏ ngỏ”, UBND xã, HTXNN chỉ đứng ra thu thủy lợi phí để trả cho Công ty Thủy nông (hưởng tỷ lệ%), việc đãn nước bảo vệ công trình..do dân tự làm, nên họ phải mất nhiều công sức, nếu tính ra tiền, hàng năm nông dân phải gánh chịu thêm 400.00 đồng/1ha ( ngoài số thủy lợi phí đã trả cho UBND, HTXNN, chưa kể đến một số xã ở Hà tĩnh còn thu thêm TLP để bổ sung cho Ngân sách xã )

 

   Hầu hết người dân phàn nàn là họ không được biết các căn cứ để tính ra mức thu mà họ phải trả và số thủy lợi phí mà HTXNN, UBND xã  thu được chi vào khoản mục gì ? ( có nơi HTXNN thu thêm (TLP) để trả lương cho cán bộ HTX, UBND..hoặc thu “một cục” theo đầu sào, không rõ TLP là bao nhiêu, khi không trả đủ cho Công ty Thủy nông, thì “đổ” cho nông dân không trả đủ thủy lợi phí..)

   Cũng theo các tài liệu điều tra thì hầu hết ( trên 90-95%) nông dân trả đủ thủy lợi phí cho HTX, UBND xã.theo qui định (đặc biệt Tuyên quang nhiều nông dân đã trả thủy lợi trước 5-7 năm). Nhưng do sử dụng thủy lợi phí sai mục đích, chiếm dụng TLP nên HTX, UBND xã không trả đủ TLP cho Công ty thủy nông và đã cho rằng dân nợ TLP.

   Cũng theo tài liệu điều tra (2003) thì trên 80 % (có nơi 100%) nguồn thu của các HTXNN ( được điều tra) là từ thủy lợi phí và trên 80% tổng số các khoản chi của HTXNN lấy từ thủy lợi phí, có nơi 80-100% giá trị cơ sở vật chất thủy lợi mà HTXNN đang khai thác ( làm dịch vụ) do Nhà nước đầu tư, Nhà nước không thu hồi vốn..nhưng không tự chủ được tài chính   .

  

    Năm 2000 Nhà nước đã xóa nợ 160 tỷ/280 tỷ đồng thủy lợi  phí do các HTXNN nợ Công ty thủy nông (chủ yếu là HTXNN thuộc các tỉnh đồng bằng sông Hồng) đã dẫn đến mất công bằng giữa địa phương trả đủ TLP và địa phương nợ thủy lợi phí

 

3,  Các tỉnh đồng bằng sông Hồng được Nhà nước đầu tư thủy lợi hoàn chỉnh đến tận khoảnh ruộng, trong khi đó nhiều nơi như miền núi, đồng bằng sông Cửu long..thì Nhà nước chỉ đầu tư phần đầu công trình đầu mối, kênh trục chinh, thậm chí nhiều nơi Nhà nước chưa đầu tư (nhất là những vùng khó nước, diện tích nhỏ, suất  đầu tư lớn..), hoặc đầu tư hạn chế (hỗ trợ), nên có nơi nông dân đã đóng góp tiền vốn, công sức để hoàn thiện công trình, vay vốn hoặc tự bỏ tiền ra tự đầu tư xây dựng công trình thủy lợi , dân tự tổ chứ quản lý, tự bàn bạc phải thu thủy lợi phí ở mức cao mới đảm bảo đủ chi phí kể cả khấu hao, so với những vùng có công trình do Nhà nước đầu tư, được thu theo Nghị định 112, 143 ( được bao cấp) đã không công bằng rồi, còn…Nếu bỏ thủy lợi phí, có nghĩa là Nhà nước lại tiếp tục đầu tư thêm cho những vùng đã được đầu tư nhiều rồi như Thái bình chẳng hạn thì  lại càng không công bằng, nhất là nông dân vùng nghèo hiện nay phần lớn phải tự lo  

 

4,  Nếu bỏ hẳn Thủy lợi phí thì khó khăn đầu tiên là Nhà nước không thể cấp đủ một cách thường xuyên 1500 tỷ/năm, chưa tính đến cấp bù do thiên tai gây hư hỏng công trình, nâng cấp khôi phục  ( hiện nay chỉ mới cấp bù khoảng 100-200 tỷ năm/1500 tỷ yêu cầu cho công tác quản lý, vận hành duy tu bảo dưỡng, đã rất khó khăn rồi, chưa tính đến sửa chữa lớn, khấu hao, hỗ trợ khi thiên tai phá hoại, khôi phục, nâng cấp công trình (1000 tỷ/năm) nữa…Theo báo cáo củaBộ NN và PTNT gần đây  “...riêng trong 5 năm ( 2001 – 2005 ) Nhà nước đã đầu tư cho thủy lợi là 25.511 tỷ VND, trong đó vốn do Bộ Nông nghiệp và PTNT quản lý 9.874 tỷVND..” ( bính quân mỗi năm đầu tư cho thủy lợi là 5100 tỷ VNĐ). Đó là chưa kể vốn đầu tư cho đê điều và phần vốn nhân dân đóng góp ( tiền, vật liệu, công sức..) để xây dựng các công trình, nhất là công trình ở mặt ruộng, nhằm đảm bảo được tính “đồng bộ, khép kín”, công trình mới phát huy được hiệu quả– đấy là phần Nhà nước quản lý…sẽ khó khăn hơn ). Nếu thiếu vốn cho duy tu bảo dưỡng, công trình sẽ hư hỏng nhanh hơn, cấp nước tưới khó khăn.., người gánh chịu hậu quả đầu tiên lại chính là nông dân. Đó là chưa tính đến hoạt động của trên 100 doanh nghiệp thủy nông với gần 20.000 cán bộ, công nhân đang trực tiếp quản lý khai thác các hệ thống công trình thủy lợi sẽ gặp rất nhiều khó khăn hơn.

 

   Nhiều Công ty Thủy nông ( nhất là vùng núi ), tỉnh không có điều kiện hỗ trợ tài chính, thủy lợi phí thu ở mức thấp nên thu nhập của người lao động (công nhân ) rất thấp ( bình quân không quá 500.000 đ/ người/ tháng ) chưa nói đến trường hợp các HTXNN nợ đọng thủy lợi phí 

   Và câu hỏi đặt ra là liệu bỏ thủy lợi phí, có giảm đươc mức đóng góp của nông đân không ? hay là giảm thủy lợi phí để người dân có them điều kiên nộp các khoản đóng góp khác ?

 

   Theo số liệu điều tra ở Kỳ anh, Đức thọ Hà tĩnh thì thu nhập của một số hộ nông dân đơn thuần từ sản xuất nông nghiệp, sau khi trừ các khoản chi phí, các khoản đóng góp thì không còn  tích lũy để tái sản xuât. Trong đó mức thủy lợi phí mà các hộ nông dân nói trên phải trả chỉ bằng 4-5% tổng chi, cac khoan dong gop của toàn hộ mà thôi. Có nghĩa là các khoản đóng góp khác đã lớn hơn rất nhiều so với thủy lợi phí mà họ phải trả   

 

    Cuối năm 1996, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng đã có lời phê vào tờ trình của Bộ NN và PTNT là bỏ thủy lợi phí, nhưng cuối cùng cũng không bỏ được, vì thủy lợi phí đã mang tính truyền thống, thể hiện tính cộng đồng cao, thực hiện phương châm “Nhà nứơc và Nhân dân cùng làm” Và bỏ thủy lợi phí sẽ tác động xấu đến nhiều mặt, không hoàn toàn là vấn đề khả năng tài chính

  Hiện nay có tỉnh nghèo (như Lào Cai) có những vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn, vùng sâu vùng xa nhân dân vẩn trả thủy lợi phí ở mức thấp (bằng 15 % mức qui định chung), nhằm nâng cao ý thức bảo vệ công trình, sử dụng nước tiết kiệm của người dân ( nếu miễn thủy lợi phí thì Nhà nước phải có trách nhiệm hoàn toàn, người dân sẽ ỷ lại, công trình hư hỏng đã có nhà nước lo ), đồng thời các công trình qui mô nhỏ, kỹ thuật không phức tạp tỉnh đã có chủ trương chuyển giao cho dân quản lý, tự trang trải..cũng là một biện pháp tích cực để giảm mức đóng góp cho dân, phát huy tối đa năng lực của công trình

 

5,  Đặc điểm của công trình thủy lợi không đơn thuần là kinh tế kỹ thuật mà còn mang nặng tính chính trị, xã hội, phục vụ đa mục tiêu, trên phạm vi một vùng nhất định, không thể cất giữ được khi thừa nước, không chuyển được từ nơi thừa nước sang nơi thiếu nước…, công trình hư hỏng ngoài nguyên nhân do thiên tai tác động, còn do chính những người dân trên địa bàn phá hoại. Từ thế kỷ 17,18 là thời kỳ lúa nước phát triển, người dân đã nhận thức được rằng thành công của lúa nước là nhờ có thủy lợi và đã khẳng định “thủy lợi là công việc của cộng đồng,,”. Vì vậy chính sách về thủy lợi rất “nhạy cảm”. Đặc biệt là không thể thiếu vai trò của nông dân trong việc quản lý và bảo vệ công trình thủy lợi..Việc trả thủy lợi phí ở mức độ khác nhau cũng chính là sự ràng buộc, gắn trách

nhiệm với quyền lợi của nông dân trong việc sử dụng nước tưới, bảo vệ, khai thác công trình thủy

lợi trên địa bàn của họ hiệu quả, bền vững  

  

   Một số người cho rằng bỏ thủy lợi phí là thực hiện “khoan sức dân”, nhưng thực chất sẽ ngược lại. Điều quan trọng không phải là vấn đề tài chính do nhà nước bao cấp, mà là vấn sẽ làm cho ý thức của người dân trong việc sử dụng nước, bảo vệ công trình sẽ bị giảm sút dẫn đến công trình sẽ xuống cấp nhanh hơn ... Bài học này đã được rút ra từ việc sử dụng điện, nước sinh hoạt….khi được bao cấp hoàn toàn

 

6,  Để giảm được đóng góp cho nông dân, thực hiện chính sách “khoan sức dân” phải trên cơ sở nâng cao được ý thức của người dân, tôi cho rằng trước hết các địa phương phải xem xét bỏ ngay các khoản đóng góp không hợp lý của người dân (hiện nay nông dân đóng nhiều khoản lắm), còn việc giảm thủy lợi phí cho người dân chỉ chỉ có thể thực hiện bằng cách giảm các chi phí trong quản lý khai thác công trình thủy lợi thông qua việc củng cố lại Công ty Thủy nông của Nhà nước( như đại biểu Thái bình nói là cồng kênh)  ứng dụng khoa học công nghệ mới.. , đồng thời phải giao quyền quản lý công trình trên địa bàn xã, liên xã cho nông dân quản lý, thông qua tổ chức của họ lập ra ( Hợp tác xã nông nghiệp có làm dịch vụ tưới, Hợp tác xã chuyên khâu, làm dịch vụ tưới, Tổ hợp tác. Hội dùng nước …như thông tư số 75 của Bộ NN và PTNT hướng dẫn, nhưng hiên nay các địa phương chưa muốn thực hiện, chỉ vì lý do chủ yếu là vấn đề nhân lực, lợi ích cá nhân của cán bộ và Bộ NN và PTNT cũng chưa có sự trợ giúp, chỉ đạo quyết liệt )

 

    Công trình trên địa bàn của họ,giao cho họ quản lý sẽ tốt hơn, họ tự quyết định mức thu thủy lợi phí và các khoản chi, sẽ tiết kiệm hơn. Đặc biêt là họ có thể trả thủy lợi phí bằng công lao động mà họ đang dư thừa, vật liệu do họ sản xuât để sửa chữa công trình, thay cho việc trả thủy lợi phí bằng thoc, hoặc bằng tiền là hai khoản nông dân rất thiếu (Tuyên quang đã thực hiện)  Nhà nước chỉ cần có một chính sách rõ ràng, hỗ trợ kinh phí cho họ trong các trường hợp thiên tai, sửa chữa lớn, khôi phục công trình (như điều 13 của Pháp kệnh khai thác và bảo vệ công trình thủy lợi đã qui định (nhưng hầu như hiện nay chưa được thực hiện đầy đủ ). Đã có nhiều mô hinh loại này ( có cả mô hình tư nhân) được thành lập, hoạt động rất hiệu quả ( các dự án hay gọi là mô hình PIM, đã được khẳng định “PIM quyết định thành công của dự án”), nhưng không được chính quyền địa phương ủng hộ, các ngành kể cả ngành nông nghiệp quan tâm, nên thành lập xong không hoạt động được.

 

   Theo tài liệu điều tra năm 2003, trong điều kiện chưa có cơ chế, chính sách hợp lý, nhưng hiện nay Nhà nước (Công ty Thủy nông) đã quản lý 91% tổng số công trình thủy lợi các loại , các ông trình còn lại (9%) do các tổ chức của dân quản lý. Trong khi đó công trình do Nhà nước quản lý đã phục vụ tưới cho 80 % tổng sô diện tích được tưới của cả nước, công trình do dân quản lý đã phục vụ tưới cho phấn diện tích còn lại ( 20% tổng diện tích được tưới cả nước). Nếu nhìn vào con số thì công trình do dân quản lý rất hiệu quả ( tỷ lệ công trình Nhà nước so với công trình dân quản lý 91/9 = 10, tỷ lệ diện tích được phuc vụ chỉ 80/20 = 4)

   Điều này cũng cho thấy các doanh nghiệp Nhà nước ( Công Ty Thủy nông ) cần phải được củng cố, có các cơ chế chính sách, tạo điều kiện cho các công ty này hoạt động tốt hơn, đặc biệt là đảm bảo tự chủ được về tài chính 

 

 ( Thông qua một số thông tin gần đây cho biết, hiện nay một số địa phương rất lúng túng trong vấn đề tổ chức quản lý, đang tiến hành tách, nhập, xóa bỏ, chuyển giao, chuyển đổi, thành lập mới đơn vị quản lý khai thác công trình thủy lợi các cấp do chưa  đề cập đến tính đặc thù, nặng tính cục bộ, cực đoan .nên hoạt động của các tổ chức này gặp nhiều khó khăn Đặc biệt ở một số hệ thống thủy lợi loại lớn,có  công trình  trên đia bàn xã.., công trình liên tỉnh không có chủ quản lý” đích thực”, nhất là ở ĐBSCL. Theo báo cáo của Bộ NN và PTNT gần đây bình quân cả nước, các hệ thống thủy lợi mới phát huy được 55-60%  năng lực thiết kế-- con số này đã được “lưu giữ”từ nhiều thập kỷ, , nguyên nhân chủ yếu vẩn là vấn đề quản lý, và thiếu vốn duy tu bảo dưỡng, công trình từ hư hỏng

nhỏ, dẫn đến hư hỏng lớn..hủy liệt.) 

 

  Nhìn chung các địa phương cũng chỉ quan tâm nhiều đến việc xin kinh phí để sửa chữa, xây dựng công trình, chưa quan tâm đến cải tiến tổ chức quản lý cho phù hợp, để giảm các chi phí cho nông dân. Đây là nội dung công việc thuộc trách nhiệm của địa phương. Tuy nhiên không thể thiếu vai trò “trợ giúp kỹ thuật” của Bộ NN và PTNT.

    Cũng cần nói thêm rằng Bộ NN và PTNT là cơ quan chủ quản, chuyên ngành, đang tập trung đầu tư xây dựng, chưa quan tâm nhiều đến công tác quản lý Điều này đã thể hiện rất rõ trong quá trình thực hiện các dự án đầu tư thủy lợi hiện nay  (nhiều chuyên gia nước ngoài cũng đã nêu vấn đề này).

 Đây cũng là vấn đề nổi cộm mà hầu hết cán bộ, nhất là cán bộ làm chức năng tham mưu trong

ngành đều thấy, nhưng không ai muốn đề xuất và làm, thậm chí còn tìm cách né tránh vì rất nhiều

lý do (có rất nhiều dẫn chứng), nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến chi phí quản lý mà người dân

đang gánh chịu   

 

7,  Từ tình hình trên, chúng tôi kính đề nghị Thủ tướng Chính phủ có chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa về thủy lợi, IMT ( giống như điện, giao thông, nước sinh hoạt..). Đánh giá một cách đúng mức hiệu quả của các công trình thủy lợi đã được đầu tư, hoạt động của các HTXNN làm dịch vụ tưới ( chứ không tính toán hiệu quả thông qua vốn, khối lượng đã được đầu tư, mà hiệu quả của công trình thủy lợi là nước có đến ruộng đủ cả lượng và chất, kịp thời vụ không ? tưới hết diện tích ? và giá thành ? và lợi ích mà người dân nhận đượcthông qua thu nhập thực của họ .chứ không phải lợi ích mà “tổ chức” HTXNN nhận được trên cổ phần .) trên cơ sở đó mới có được biện pháp về đầu tư, quản lý thích hợp, đặc biệt hiện nay phải có chính sách rõ ràng đối với những công trình giao cho tổ chức của dân quản lý. Theo kinh nghiệm nhiều nước và cả trong nước ( kinh nghiệm tại Thái bình, Hà tĩnh, Đắc lắc…. ) thì nông dân có thể quản lý được công trình thủy lợi, kể cả công trình có kỹ thuật phức tạp, nếu họ được giao quyền, được hướng dẫn, đào tạo và có các cơ chế, chính sách phù hợp tác động ( có rất nhiều mô hình ). Để làm được tất cả các công việc này thì vai trò của địa phương rất quan trọng, trong đó có vai trò cán bộ là quyết định trong việc giúp Nhà nước hoạch định các cơ chế, chính sách, trợ giúp kỹ thuật, hướng dẫn đào tạo nông dân....Đấy mới là “lo cho dân” đúng chỗ

 

Năm 1967 Bác Hồ về thăm Thái bình đã nói :

 

     "Ai kháng chiến thắng lợi? Toàn dân. Vậy thì bây giờ muốn có đủ nước, muốn điều hoà nước thì cũng phải toàn dân làm thủy lợi. Muốn thế, cán bộ phải đi đúng đường lối quần chúng, dựa vào nhân dân, trước hết phải tin tưởng lực lượng và trí tuệ của nhân dân là vô cùng vô tận. Tuyên truyền, giáo dục, đoàn kết, tổ chức được trí tuệ và lực lượng đó thì việc gì khó mấy cũng làm được"

          "Làm thủy lợi nhỏ thì nhân dân tự làm được, lại mau hưởng, Chính phủ không phải tốn kém. khi nhân dân đã thấy kết quả tốt và đã có kinh nghiệm thì nhân dân có thể làm thủy lợi loại vừa và làm lớn cũng được"

 

 Đầu tư xây dựng nhiều công trình, nhưng không có chính sách phù hợp, tổ chức quản lý không thích ứng, không có vai trò của người dân tham gia (PIM) sẽ không đem lại hiệu quả tương xứng

 

  Có thể khẳng định rằng Thủy lợi (nước) góp phần rất quan trọng quyết định năng suất, sản lượng, chất lượng, giá thành của các sản phẩm có tưới như gạo, các loại rau, màu, hoa quả, cà phê, hoa.. xuất khẩu …cả trước mắt và kể cả lâu dài, đó cũng là tiêu chí để cạnh tranh trong xuất khẩu cũng là biện pháp góp phần giải quyết thách thức khi gia nhập WTO ( bây giờ nước đang thuận lợi, nên nhiều người chưa coi trọng). Đặc biệt vùng đồng bằng SCL, được thiên nhiên ưu đãi về nước, nên sán xuất lương thực, nuôi thủy sản, hoa quả…hiện tại còn nhiều thuận lợi, nhưng trong tương lai sẽ khó khăn hơn nhiều ( thiếu nước ngọt, mặn, phèn, ngập..), nếu không “đón trước”để có những quyết sách ngay từ bây giờ về vấn đề tổ chức quản lý, sử dụng nước, chính sách thủy lợi phí hợp lý…thì không chỉ sản xuất lương thực, nuôi thủy sản….mà nhiều đối tượng sử dụng nước khác, kể cả nước cho công nghiệp..chắc chắn khó khăn hơn, ảnh hưởng  trực tiếp đến cạnh tranh xuất khẩu

 Trên đây cũng là những ý kiến mà chúng tôi đã đề nghị nhiều lần trước đây, nhưng chưa thực hiện

được. . Đây cũng là suy nghĩ và tâm huyết của nhiều người, nhân dịp này chúng tôi muốn trình bày với Thủ tướng, rất mong Thủ tướng thông cảm      

 

Chúng tôi luôn tin tưởng rằng Thủ tướng Chính phủ sẽ có những quyết định đúng đắn về chính sách thủy lợi phí hiệu quả, hiệu lực và bền vững – Không nên bỏ thủy lợi phí .

   Chân thành cảm ơn Thủ tướng.  Kính chúc Thủ tướng mạnh khỏe

 

Nguyễn Xuân Tiệp

 

  PGĐ TT KHCN và Phát triển TNN

Mobi : 0913087595 , E-maill : tiepnx@gmail.com, tiep_moa2004@yahoo.com

Đóng góp ý kiến về bài viết này 

Mới hơn bài này
Các bài đã đăng
Tiêu điểm
Biến đổi khí hậu và An ninh nguồn nước ở Việt Nam.[08/07/21]
Đại hội lần thứ IV, sự kiện lớn của Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam.[27/04/19]
Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam phấn đấu vì sự nghiệp phát triển thủy lợi của đất nước.[18/04/19]
Danh sách Hội viên tập thể đã đóng niên liễm 2018.[11/01/19]
Chùm ảnh Đại hội lần thứ 2 Hội Đập lớn Việt Nam.[13/08/09]
Nhìn lại 5 năm hoạt động của VNCOLD trong nhiệm kỳ đầu tiên.[10/08/09]
Thông báo về Hội nghị Đập lớn Thế giới.[17/07/09]
Thư chào mừng của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải
VNCOLD đã thành công tại cuộc họp Chấp hành ICOLD Sofia (Bulgaria), 6/6/2008
Phó Thủ tướng khai mạc Hội thảo “ASIA 2008.
Tạo miễn phí và cách sử dụng hộp thư @vncold.vn
Website nào về Thủy lợi ở VN được nhiều người đọc nhất?
Giới thiệu tóm tắt về Hội Đập lớn & Phát triển nguồn nước Việt Nam.
Download miễn phí toàn văn các Tiêu chuẩn qui phạm.
Đập tràn ngưỡng răng cưa kiểu “phím piano".
Đập Cửa Đạt
Lời chào mừng
Qu?ng c�o