"PHẦN CỨNG VÀ PHẦN MỀM " ***,
Nâng cao năng lực quản lý khai thác công trình thuỷ lợi
Nguyễn Xuân Tiệp* - Nguyễn Lê Phương Anh**
Theo nhiều tài liệu điều tra và ước tính thì cơ sở vật chất thuỷ lợi hiện có ở nước ta có giá trị tương đương khoảng trên 100 ngàn tỷ đồng ( VND). Theo các báo cáo gần đây thì nhiều hệ thống công trình thuỷ lợi đang trong tình trạng xuống cấp, phục vụ sản xuất và đời sống đạt hiệu quả chưa cao, chưa tương xứng với đầu tư.
Một trong số nguyên nhân quan trọng là do quản lý yếu kém, thiếu vai trò của người dân tham gia ( PIM ). Đặc biệt là chỉ tập trung vào đầu tư xây dựng, chưa quan tâm đầy đủ đến quản lý vận hành duy tu, bảo dưỡng.
Nhiều chuyên gia thuỷ lợi đã tập trung nghiên cứu về mối quan hệ giữa xây dựng và quản lý, đã đưa ra nhiều kiến nghị về giải pháp khắc phục, đảm bảo xây dựng công trình phải đồng thời với việc tổ chức quản lý khép kín, có cơ chế,chính sách gắn trách nhiệm với quyền lợi của người hưởng lợi từ công trình thuỷ lợi .
Từ tình hình thực tế trên chúng ta có thể minh hoạ mối quan hệ giữa xây dựng công trình và quản lý khai thác công trình giống như " phần cứng và phần mềm " của máy vi tính mà chúng ta đang sử dụng hàng ngày.
Và thật là vô vị đối với không ít trường hợp chỉ thích sắm một máy vi tính " phần cứng " để bên cạnh bàn làm việc hàng ngày của mình để thỉnh thoảng bật lên...? mà không cần đến " phần mềm " Tương tự chỉ tập trung xây dựng công trình, mà không cần quan tâm đến việc quản lý khai thác nó một cách hiệu quả nhất
" Phần cứng và phần mềm " !?
Hãy thử xem xét một cái máy vi tính xách tay. Đó là một cái hộp đen, cứng và nhỏ. Chúng ta có thể mở nó, nhìn thấy màn hình, bàn phím, ổ cứng... Đó là phần cứng của máy vi tính
Sau đó, chúng ta ấn nút khởi động. Màn hình bật sáng, hệ thống hoạt động, như Windows chẳng hạn, trở nên sống động, chương trình văn bản..hoặc tính toán đã sẵn sàng. " Đấy là phần mềm "
Vậy phần nào quan trọng hơn, phần cứng hay phần mềm ? không có câu trả lời, bởi vì phần cứng không sử dụng được nếu thiếu phần mềm và phần mềm cũng vô dụng nếu thiếu phần cứng. Cả hai đều cần có nhau
Nhưng thông thường, phần mềm có thể phát triển, thay đổi và nâng cấp nhanh hơn và rẻ hơn phần cứng. Nếu chúng ta mua một cái máy vi tính, chúng ta có dự định sử dụng nó trong một số năm. Nhưng trong thời gian đó, chúng ta lại mong muốn có sự thay đổi để đáp ứng yêu cầu thì chỉ cần nâng cấp phần mềm và việc này xẩy ra thường xuyên hơn.
Trong quản lý khai thác công trình thuỷ lợi phục vụ cho việc quản lý nguồn nước, phần cứng bao gồm những thứ như đập, cống, kênh... Cũng như máy vi tính, các công trình như đập, cống, kênh..cần có hệ thống hoạt động, điều hành : một văn phòng quản lý với các trang thiết bị cần thiết. Đó là nơi ra các quyết định và đưa ra các chỉ dẫn như các qui định, qui trình...đóng mở cống, bảo vệ đập, kênh mương, điều chỉnh dòng chảy cho phù hợp với yêu cầu.
Công trình ở đồng bằng sông Cửu Long
Như vậy việc quản lý thông qua một hệ thống quản lý, đó là " phần mềm " của đập, cống, kênh.." Phần mềm " hoạt động dựa trên việc đo đạc và kiểm soát các hoạt động như dòng chảy, sự thay đổi mực nước, truyền đạt thông tin, ra quyết định để khai thác tối đa công trình " phần cứng "
Nếu quản lý không tốt thì cả đập, cống, kênh.. sẻ hiệu quả thấp, thậm chí trở nên vô dụng. Mục tiêu do các nhà kế họach lập ra sẽ không đạt được. Còn tồi tệ hơn cả sự vô dụng bởi vì để xây dựng được phần cứng đó chúng ta phải tiêu tốn rất nhiều tiền, diện tích đất đai và nhân công. Nếu chúng ta không quản lý tốt, chúng ta sẽ thấy rằng chính chúng ta gây nên lãng phí đó và chẳng thu được lợi ích gì
Tuy nhiên ( trong trường hợp của máy vi tính ), việc cải tiến phần mềm thường dễ dàng và rẻ hơn so với thay thế phần cứng. Nếu đập, cống ( chẳng hạn ) không đáp ứng được yêu cầu, hiệu quả thấp, nên không dem lại lợi ích như mong muốn, chúng ta trước tiên không nên nghĩ đến việc tăng độ cao của đập, mở rộng khẩu độ cống, hoặc xây dựng một cái đâp, cái cống khác...bởi vì đó là việc làm rất tốn kém. Trước tiên chúng ta nên nghĩ đến việc cải tiến hệ thống quản lý. Thường thì bằng cách đó, chúng ta sẽ làm nhanh hơn, thu được lợi ích lớn hơn và chi phí nhỏ hơn.
Công trình thuỷ lợi được đầu tư xây dựng ( phần cứng ) xong, thường phải xác định là hết bao nhiêu tiền ? và sẽ đưa vào phục vụ tưới ( chẳng hạn ) cho bao nhiêu héc- ta ruộng ? Nhưng muồn tưới được số diện tích ấy đạt được các chỉ tiêu kỹ thuật nhất định, cần phải có một hệ thống tổ chức quản lý bao gồm một đội ngũ cán bộ công nhân được đào tạo, đủ năng lực để quản lý vận hành công trình theo qui định và với điều kiện là trang thiết bị quản lý theo yêu cầu ( phần mềm ).
Theo tài liệu điều tra của Cục Thuỷ lợi ( 2000-2002 ) thì hiện có 21,1 % số lao động làm việc trong hệ thống thuỷ lợi chưa được đào tạo, đầu tư cho trang thiết bị quản lý mới chiếm 0,1 - 2 % so với tổng vốn đầu tư cho công trình ( trong khi đó một số nước con số này là trên 10% ) . Như vậy phần cứng và phần mềm chưa tương xứng với nhau, trong trường hợp này không phát huy được năng lực của phần cứng, mặc dù đã được đầu tư rất lớn và cần phải được cải tiến.
Điều này đã chỉ ra rằng có hai loại cải tiến : đầu tiên, đó là nâng cao kiến thức và kỹ năng cho những người làm quản lý, thứ hai, đó là việc cải tiến tổ chức và thể chế ( kể cả trang thiết bị quản lý ) mà trong đó có nhiều người hoạt động hơn. Thật là vô ích đối với một người có kiến thức, kỹ năng tốt, nếu " môi trường " tổ chức không làm cho người ta hài lòng, không tạo điều kiện cho người quản lý áp dụng kiến thức kỹ năng, hoạt động sẽ kém hiệu quả . Phát triển nhân lực và phát triển tổ chức là hai việc song song trong cải tiến quản lý.
Đào tạo nâng cao năng lực phục vụ cho quản lý khai thác công trình thuỷ lợi, phát triên tài nguyên nước cũng không phải là dễ dàng, đòi hỏi một phương pháp riêng. Tại sao vậy ?
Khi chúng ta mua một thiết bị, chẳng hạn đầu Video, chung ta đã có một quyến sách hướng dẫn sử dụng. Nhìn bề ngoài thì cứ nghĩ là phức tạp, khó hiểu, nhưng khi chúng ta tìm ra cách hiểu thì mọi thứ chúng ta muốn đều có trong đó. Đấy là việc tiêu chuẩn hoá bằng các quyết định với các loại thiết bị đồng loại.
Quản lý khai thác công trình thuỷ lợi, phát triển tài nguyên nước cũng cần có những tiêu chuẩn hoá tuy khó hơn. Vì mỗi nơi, mỗi lưu vực sông, mỗi loại công trình, mỗi nước đều có khác nhau, ngay cả tập quán cũng có những nét riêng, hoạt động kinh tế cũng mang tính đặc thù.
Vì vậy không thể nói :" Hãy nghe bài giảng của tôi hoặc bài viết của tôi, bạn sẽ thấy đầy đủ mọi thứ về quản lý khai thác công trình thuỷ lợi, phát triển tài nguyên nước mà bạn mong muốn ".
Như vậy đào tạo nâng cao năng lực để quản lý khai thác công trình thuỷ lợi, phát triển tài nguyên nước là chỉ ra cho người ta nhiều ý tưởng và kinh nghiệm của các nơi khác, giúp cho người ta phân tích và hiểu rõ thực trạng của riêng mình, giúp cho họ phát triển quá trình ra quyết định của chính mình.
Không ít công trình thuỷ lợi nhỏ ( nhất là công trình ở miền núi ) kể cả hệ thống công trình, kênh mương cấp cơ sở thuộc hệ thống thuỷ lợi vừa và lớn còn " bỏ ngỏ " do chưa có chủ quản lý đích thực, hệ thống tổ chức quản lý ( phần mềm ) chưa đảm bảo khép kín, nên chưa khai thác tốt công trình ( phần cứng ) đã được đầu tư.
Nhà nước dã có chủ trương tăng cường công tác quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi. Nhiều văn bản qui định đã tạo hành lang pháp lý để đầu tư xây dựng công trình ( phần cứng ) phải đồng thời với quản lý ( phần mềm ), đặc biệt là phát huy vai trò của người dân tham gia quản lý vận hành duy tu bảo dưỡng ( PIM ), thực hiện phương châm " nhà nước và nhân dân cùng làm ".
Nhưng tất cả vẩn còn nhiều khó khăn, thách thức, " phần cứng " được tăng cường và "cứng " hơn , trong khi đó " phần mềm " cứ yếu đi và "mềm" hơn đã tạo ra khoảng cách giữa phần cứng và phần mềm ngày càng lớn hơn .
Công việc trước mắt đang đòi hỏi chúng ta là phải khai thác tối đa " phần cứng " đã được đầu tư bằng cách cải tiến " phần mềm "thông qua nâng cao năng lực quản lý...
* Nguyên Phó Cục trưởng cục Thuỷ lợi- Bộ NN và PTNT
Thành viên sáng lập tổ chức màng lưới PIM của Việt nam ( VNPIM )
Thường trực văn phòng VNPIM ( 1998 - 2004 )
Thành viên sáng lập Trung tâm tư vấn PIM ( CPIM )
Phó Giám đốc Trung tâm KHCN và Phát triển TNN ( từ 2004)
Chuyên gia PIM thuộc dự án Quản lý tổng hợp Tài nguyên nước lưu vực sông Srepok , DANIDA- MARD ( từ 2005)
** ThS KT, NCS tại ởTrường ĐH KYOTO, Nhật bản
*** Phỏng theo một số khái niệm thông qua trao đổi với Ông Charles Abernetth - một chuyên gia thuỷ lợi đã từng tham gia giảng dạy các khoá đào tạo về quản lý tưới của tổ chức Inwent (trước đây là DSE ) cho cán bộ các nước Việt nam, Lào, Cambodia ./.
|