Chỉ dẫn quan trắc đập, hồ chứa nước [Bài 13: Giám sát tổ chức dữ liệu và phân tích dữ liệu.]
05/10/2025 08:25
Giám sát tổ chức dữ liệu và phân tích dữ liệu.
13.1 Giới thiệu
Trách nhiệm của một kỹ sư xây dựng đập không chỉ là lập dự án, thiết kế và xây dựng một con đập theo các tiêu chuẩn ban hành mà còn phải đảm bảo hoạt động của nó thông qua việc xây dựng một chương trình quan trắc an toàn đập. Tất cả những yêu cầu này nhấn mạnh sự cần thiết phải có những phương tiện hoặc công cụ đáng tin cậy, được gọi là thiết bị quan trắc, chúng được lắp đặt bên trong hoặc trên bề mặt của đập, để có thể cung cấp những thông tin về trạng thái và đối xử của kết cấu công trình. Kết quả quan trắc định kỳ bằng các thiết bị này kết hợp với việc phân tích dữ liệu thu được dựa trên phương pháp chẩn đoán sẽ giúp hiểu được trạng thái của đập.
Chức năng của thiết bị quan trắc phải phù hợp khi thông số vật lý dự kiến quan trắc mà có thể hiện được ứng xử của kết cấu công trình trong các điều kiện khác nhau kéo dài từ giai đoan bắt đầu xây dựng đến tích nước và tạo dòng chảy ổn định cho việc khai thác chức năng của hồ chứa. Ứng xử của đập với tất cả các phương án tải trọng trong cuộc đời của đập phải được dự đoán trước và nó chính là các giá trị nội lực tới hạn của công trình. Thông qua độ lớn của các giá trị giới hạn dự tính có thể giúp lựa chọn khoảng đo và độ nhạy của các thiết bị quan trắc dự kiến sử dụng cho việc theo dõi ứng xử của đập. Các đặc tính của vật liệu sử dụng để xây dựng đập ở trạng thái lựa chọn là những giá trị đầu vào cho công tác thiết kế và kiểm soát chất lượng trong quá trình thi công.
13.2 Các khía cạnh thiết kế bố trí thiết bị quan trắc
Đập vật liệu địa phương, là loại công trình sử dụng loại vật liệu không có tính chất kết dính, được thi công theo phương pháp đắp đầm chặt ở một độ chặt yêu cầu. Đập thường có chiều rộng chân đập lớn hơn nhiều so với chiều cao vì vậy trong thiết kế, lưu ý quan trọng nhất là phân tích ổn định cục bộ của nó, tức là xác định vị trí có khả năng xảy ra trượt bên trong khối đắp và nền. Trong khi vấn đề ổn định của đập được quan tâm hàng đầu, thì ứng suất và biến dạng của đập cũng cần được tính toán và đo đạc để đảm bảo rằng chúng đều nằm trong trạng thái giới hạn về “ổn định” và theo “yêu cầu sử dụng”.
Tương tự như vậy, thiết kế của các đập bê tông trọng lực được giới hạn trong việc phân tích độ ổn định của nó ở các điều kiện tải trọng khác nhau. Việc phân tích được thực hiện bằng phương pháp tính toán xác định giá trị ứng suất thẳng đứng ở góc đáy thượng lưu và hạ lưu, lực ma sát giữa đáy đập và nền, độ an toàn chống lật. Quy luật phân bố ứng suất vuông góc với đáy đập trong các tính toán giải tích được coi là tuyến tính trong chiều rộng đập từ thượng lưu đến hạ lưu. Quy luật phân bố ứng suất cắt đáy đập được coi là dạng parabol. Giá trị mô đun biến dạng của bê tông thân đập hay của nền nói chung không tham gia trong tính toán thiết kế.
Tải trọng động đất dựa theo phân tích giả động để tính đến ảnh hưởng của động đất. Giá trị lực ngang phát sinh tác động vào công trình do động đất tạo ra được giả thiết bằng tích khối lượng và gia tốc tác dụng tại trọng tâm của khối lượng tính toán. Một phương pháp tinh vi hơn một chút có tính đến phổ phản ứng của động đất. Thông thường phương pháp phân tích động lực học chỉ được thực hiện đối với các đập cao và quan trọng.
Tốc độ xây dựng là một yếu tố khác góp phần quan trọng vào sự ổn định của đập vật liệu địa phương vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến sự tiêu tán áp lực nước kẽ rỗng. Tốc độ xây dựng càng nhanh thì giá trị áp lực nước kẽ rỗng tiêu tán càng chậm. Đôi khi, vì lý do này hay lý do khác mà công việc xây dựng bị đình trệ hoặc dừng đột ngột. Điều này dẫn đến việc tạo điều kiện cho hiện tượng tiêu tán áp lực kẽ rỗng và tăng độ cố kết của vật liệu thân đập. Ứng suất và biến dạng trong đập đắp sẽ rất khác nhau giữa trường hợp xây dựng nhanh so với việc xây dựng theo nhiều giai đoạn hoặc với tốc độ chậm hơn. Trong điều kiện thời tiết quá ẩm ướt hoặc khi đất đắp có độ ẩm cao hơn giá trị giá trị độ ẩm tối ưu cũng làm kéo dài thời gian xây dựng do phải thực hiện các biện pháp làm giảm độ ẩm. Do tốc độ xây dựng phụ thuộc vào tốc độ tiêu tán của áp lực nước kẽ rỗng, nên thông số này cũng cần được kiểm soát thông qua thiết bị quan trắc.
Tương tự như vậy, trong đập bê tông, trạng thái ứng suất và biến dạng cũng phụ thuộc vào quả trình thủy hóa xi măng, quá trình tăng và tỏa nhiệt không đồng đều giữa các khối thi công ở những thời gian khác nhau, bên cạnh tiến độ thi công và chiều cao khối đổ, v.v. Hàm lượng xi măng càng cao thì nhiệt thủy hóa càng cao và ứng suất nhiệt (kéo) càng lớn. Với tốc độ xây dựng càng nhanh, đập càng mất nhiều thời gian để đạt được sự cân bằng nhiệt độ với môi trường xung quanh.
Thiết bị quan trắc đo các thông số như áp lực nước kẽ rỗng, biến dạng, tổng ứng suất, độ lún, v.v., tại các vị trí cụ thể, vì vậy tại tất cả các vị trí này phải có giá trị dự tính lý thuyết tương ứng, chúng là những giá trị giới hạn trong việc so sánh kết quả quan trắc với kết quả tính toán.
Các thông số quan trắc của đập bê tông thường là ứng suất, nhiệt độ, dịch chuyển bề mặt, áp lực ngược đáy đập, độ nghiêng và độ lún.
13.3 Mô hình số
Mô hình số được thể hiện bằng các phần mềm tính toán đã nổi lên là một công cụ mạnh mẽ để phân tích, đánh giá và giải thích kết quả quan trắc. Trong các phần mềm này, các thông số đầu vào như điều kiện biên của công trình, tốc độ xây dựng và trình tự thi công, cũng như các đặc tính của vật liệu xây dựng đập đều được mô phỏng. Một điểm quan trọng để giải quyết các bài toán thực tế, trong các phần mềm các đặc điểm ứng xử của vật liệu được dựa trên việc lựa chọn các mô hình quan hệ ứng suất – biến dạng phù hợp như tính dị hướng, tuyến tính và tính dẻo, hay mô hình biến dạng lớn và phá hoại rất hiệu quả. ICOLD (1986), đã mô tả phương pháp phần tử hữu hạn để phân tích ổn định. Tuy nhiên để có kết quả tính toán chính xác thì việc lựa chọn các thông số của các mô hình ứng xử của vật liệu đập là chìa khóa thành công.
13.4 Phương pháp phân tích ngược
Phân tích ngược thực tế có nghĩa là thực hiện lại các tính toán thiết kế dựa trên kết quả quan trắc. Trong một bài toán thuận, thông số đầu vào là kích thước công trình, các điều kiện biên và các thông số về quan hệ ứng suất – biến dạng của vật liệu đập và kết quả tính toán là các giá trị nội lực hay chuyển vị của các điểm trong thân đập, thì trong bài toán ngược người ta lại sử dụng các giá trị quan trắc làm đầu vào để điều chỉnh lại các thông số đầu vào trong tính toán ban đầu, đặc biệt kết quả tính toán này cho phép xác định được độ an toàn thực tế của công trình. Do đó, để áp dụng công nghệ phân tích ngược, nên xây dựng một chương trình quan trắc với quy mô nhỏ hơn cho một số thông số nhạy cảm có giá trị cho quá trình phân tích ngược. Kế hoạch cho các quan trắc này phải được chuẩn bị kỹ lưỡng cả về vị trí và chủng loại thiết bị.
Phân tích ngược đã tạo ra các mô hình toán học đáng tin cậy để hỗ trợ các tính toán thiết kế. Các mô hình này giúp dự đoán ứng xử của đập ở các giai đoạn tiếp theo và được ngoại suy từ các tình huống trước đó. Bên cạnh đó, kết quả này cũng là kinh nghiệm quý báu sử dụng cho việc thiết kế các công trình trong tương lai, đem lại hiệu quả kinh tế và kỹ thuật cho xã hội.
13.5 Tải trọng động
Tải trọng động tác động lên công trình do động đất hay nổ mìn, việc quan trắc loại tải trọng này bằng các thiết bị hợp lý cũng là cần thiết. Trong khi các cảm biến đo động có những hạn chế về thời gian phản hồi của chúng, thì bộ ghi dữ liệu hoặc hệ thống máy tính có thể được sử dụng để thu thập dữ liệu thiết bị đo trong các khoảng thời gian cần thiết.
Để thực hiện phân tích một cách hiệu quả, cần có thêm dữ liệu liên quan đến gia tốc động đất và các đặc tính động lực học của vật liệu. Do đó, thiết bị quan trắc hiện trường nên bao gồm máy đo gia tốc dao động mạnh và thiết bị ghi phổphản ứng của kết cấu để có thể có được các bản ghi về các lần xảy ra động đất và phản ứng tương ứng của kết cấu công trình.
13.6 Phân tích động
Quá trình xây dựng và đầm nén từng lớp của một đập đất có thể mô hình hóa, đồng thời tốc độ rải đất và đầm trong quá trình xây dựng cũng được kể đến trong mô hình phân tích. Khi quá trình xây dựng kết thúc, hồ chứa có thể được tích nước ở một tốc độ dự kiến, vì vậy tốc độ tích nước đến đầy hồ chứa cũng rất quan trọng. Sau khi hồ chứa đầy, gradient thủy lực hình thành và bắt đầu xuất hiện vết thấm cũng như áp lực nước kẽ rỗng phát triển trong thân đập. Có thể tiến hành phân tích đập bằng phương pháp phân tích động cho phép xác định được phân bố áp lực nước kẽ rỗng, ứng suất và biến dạng trong thân đập và nền đập. Những thông số này có thể được so sánh với những thông số thực tế đo được.
13.7 Phân tích dữ liệu quan trắc
13.7.1 Mục đích của việc phân tích dữ liệu quan trắc
Lý do lắp đặt các thiết bị quan trắc cho đập là để kiểm soát đập trong quá trình thi công xây dựng và vận hành. Một trong những ứng dụng cụ thể của công tác quan trắc là cung cấp dữ liệu để xác định xem công trình có tiếp tục hoạt động như dự kiến hay không. Việc xử lý một khối lượng lớn dữ liệu quan trắc thô có thể được thực hiện hiệu quả bằng sự trợ giúp của máy tính. Để có thể giải thích đúng được các kết quả quan trắc đòi hỏi phải kiểm tra cẩn thận các phép đo cũng như các tác động ảnh hưởng khác, chẳng hạn như quy trình vận hành hồ chứa, nhiệt độ không khí, lượng mưa, lưu lượng thấm và rò rỉ xung quanh kết cấu, công tác thi công phụt vữa, tiến độ đổ bê tông, thời gian dừng hoạt động theo mùa trong quá trình xây dựng, kết quả thí nghiệm bê tông và đánh giá định kỳ kết quả quan trắc. Việc hiển thị dữ liệu quan trắc phải ở dạng bảng và dạng đồ họa, đồng thời cũng cần phải là đơn giản và dễ hiểu. Dữ liệu quan trắc nên được một kỹ sư chuyên nghiệp thông thạo về thiết kế, xây dựng và vận hành công trình đập đánh giá định kỳ.
13.7.2 Thu thập dữ liệu tự động
Những cân nhắc và lý do để áp dụng công nghệ tự động hóa hệ thống thu thập dữ liệu quan trắc kết cấu công trình trong đập bao gồm một hoặc nhiều điều sau:
· Giảm nhân lực trong việc lấy và xử lý dữ liệu;
· Tăng tần suất lấy số liệu;
· Cung cấp cảnh báo tự động nếu kết quả đo vượt quá các giá trị giới hạn;
· Cho phép có số liệu thường xuyên hơn mà không tăng chi phí nhân công để tránh phải dự đoán thêm các số liệu;
· Có thể truyền dữ liệu đến một vị trí khác để trợ giúp cho việc đánh giá;
· Giảm lỗi trong quá trình lấy và xử lý số liệu;
· Cho phép thu thập dữ liệu dài hạn liên tục theo các khoảng thời gian cần thiết;
· Cho phép cung cấp trực tiếp dữ liệu vào cơ sở dữ liệu máy tính để chuyển thành các biểu đồ đánh giá;
13.7.3 Đánh giá dữ liệu quan trắc
(i) Theo dõi sự thay đổi dữ liệu theo thời gian
Sự thay đổi một thông số quan trắc theo thời gian bằng các thiết bị đo nhằm mục đích kiểm soát an toàn đập một cách thích hợp.
Cách tổ chức biểu diễn dữ liệu giám sát được thể hiện trong Hình 13-1 đến Hình 13-14. Những số liệu này được giới thiệu như là tài liệu tham khảo cho việc quản lý dữ liệu giám sát. Mối liên hệ giữa các thông số khác nhau như rò rỉ, lượng, mực nước hồ chứa và thời gian được trình bày trong Hình 13-15 đến Hình 13-19.
Đối với bất kỳ loại đập nào, hạng mục quan trắc cơ bản và quan trọng nhất để kiểm soát an toàn là rò rỉ từ nền đá như mô tả dưới đây.
Các dạng biểu diễn điển hình của việc gia tăng hiện tượng thấm do sự gia tăng mực nước hồ chứa sau khi bắt đầu tích nước được thể hiện trong Hình 13-1 đến Hình 13-19. Công trình có thể được giả định là ổn định nếu tốc độ tăng của dòng thấm là không đổi (2) hoặc tăng dần (3). Cần chú ý kỹ nếu tốc độ tăng đột ngột (4).
(ii) Mối quan hệ giữa rò rỉ và mực nước hồ chứa
Sau khi số lần đo là đủ lớn đến một mức độ nào đó, hiện tượng thấm/rò rỉ có thể được nhìn thấy rõ ràng hơn bằng cách tập trung đánh giá ở thời điểm mực nước hồ chứa là không đổi (Hình 13-19-2). Một tình huống được coi là ổn định có thể được giả định khi rò rỉ giảm dần (1) hoặc gần như không đổi (2). Phải xác định nguyên nhân nếu rò rỉ tăng dần (3), và phải khẩn trương thực hiện các biện pháp đối phó nếu rò rỉ tăng đột ngột (4).
Tuy nhiên, trong lần tích nước đầu tiên của hồ chứa, do số lần đo có thể không đủ và thời gian giữ mực nước hồ không đổi nói chung là ngắn. Do đó, việc phương pháp khảo sát xu hướng rò rỉ ở mực nước hồ chứa không đổi như nêu trên (như mô tả trên Hình 13-19-2), thường khó khăn. Trong trường hợp này, một biểu đồ tương quan với mực nước chứa trên trục tung và độ rò rỉ đo được trên trục hoành có thể được vẽ để kiểm tra bất kỳ thay đổi đột ngột nào trong xu hướng phát triển. Hình 13-15 - Hình 13-19 cho thấy mối tương quan thích hợp giữa rò rỉ và mực nước hồ chứa. Những quan hệ tương ứng như vậy rất hữu ích cho việc phân tích.
(iii) Số lần theo dõi sau khi bắt đầu tích nước
Các sự cố đập trong quá khứ cho thấy rằng lần đầu tiên tích nước của hồ chứa là giai đoạn quan trọng nhất của việc kiểm soát an toàn.
Các đập đã gặp sự cố trong lần tích nước đầu tiên bao gồm Đập Malpasset (Pháp, hoàn thành năm 1954, vỡ năm 1959);Đập Viont (Ý, hoàn thành năm 1960, bị tràn do sạt lở đất vào hồ chứa năm 1963), và Đập Teton ( Hoa Kỳ, hoàn thành năm 1975, bị vỡ năm 1976).
Trong tình huống bình thường, các yếu tố quan trắc cụ thể được mong đợi sẽ trở nên ổn định theo thời gian như được mô tả trong Hình 13-5 và Hình 13-6.
Theo quan điểm giám sát an toàn đập và theo kinh nghiệm, công tác quan trắc nên thực hiện với tần suất lớn hơn cho một số thông số quan trắc trong lần tích nước đầu tiên và với tần suất thấp hơn đối với một số thông số quan trắc khác khi các kết quả đo trở nên ổn định.
(iv) Các biện pháp phòng ngừa khác
Để kiểm soát an toàn, lượng rò rỉ và độ đục của rò rỉ là quan trọng. Độ đục của rò rỉ quan sát được tại các lỗ thoát nước được thiết lập trong hành lang kiểm tra ở thân đập bê tông và ở bề mặt hạ lưu đập đất có thể cho thấy sự cố thấm cục bộ trong nền hoặc thân đập. Khi quan sát thấy sự gia tăng độ đục, cần chú ý cẩn thận, ngay cả khi lượng rò rỉ là nhỏ tại thời điểm xem xét.
13.7.4 Phân tích dữ liệu và đánh giá tóm tắt
Các mối quan hệ nhất định thường tồn tại giữa các yếu tố khác nhau tác động lên các con đập. Các mối quan hệ này được trình bày dưới đây trong Bảng 13-1.
Bảng 13‑1 Mối quan hệ nguyên nhân và kết quả của diễn giải số liệu
Các yếu tố vật lý có liên quan | Ảnh hưởng của các mối quan hệ của chúng đến việc diễn giải dữ liệu | ||
Áp lực nước/ Mực nước thượng hạ lưu hồ/ Lượng mưa | + Áp lực nước bên trong thân đập và đáy đập vật liệu địa phương hay dưới đáy đập bê tông trong quan hệ với mực nước thượng hạ lưu. + Áp lực nước bên trong vai đập trong quan hệ mới mực nước thượng hạ lưu. + Áp lực nước bên trong mái đập đất trong quan hệ trực tiếp với nước hồ chứa. + Nước mưa hay áp lực nước cục bộ có thể tác động đến áp lực nước bên trong và đáy đập vật liệu địa phương hay dưới đập bê tông, trong vai đập hay trong mái đập. |
| |
Chuyển động của áp lực nước | + Khi áp lực nước tăng lên trong thân đập, trong đáy đập hoặc vai đập, cường độ kháng cắt hữu hiệu của vật liệu đập để chống lại chuyển động sẽ giảm. Nếu cường độ kháng cắt này giảm xuống nhỏ hơn lực gây trượt sẽ xảy tra hiện tượng trượt. |
| |
Áp lực nước/Dòng thấm/ Mực nước hồ/ Lượng mưa | + Hiện tượng thấm thông thường liên quan trực tiếp đến mực nước hồ chứa. + Lượng mưa thường dẫn đến sự gia tăng tạm thời của dòng thấm. + Sự giảm lưu lượng thấm và tăng áp lực nước dưới đáy hoặc trong các vai đập cho thấy hệ thống thoát nước đang mất tác dụng… + Lưu lượng thấm và áp lực nước giảm xuống ở đáy hoặc trong vai đập cho thấy sự thẩm thấu của nước hồ chứa vào nền hoặc vai đang giảm (có thể do tác động phù sa của lưu vực hồ chứa). |
| |
Dịch chuyển/Mực nước hồ | + Thông thường, khi mực nước hồ chứa tăng lên, đập bê tông sẽ bị lệch theo hướng hạ lưu. + Thông thường, khi mực nước hồ chứa tăng lên, đập vật liệu địa phương sẽ bị lệch đáng kể theo hướng hạ lưu. + Đối với các đập đắp bằng đất và đá rất cao, các chuyển động đo được có thể bị ảnh hưởng bởi độ lún do hồ chứa gây ra. + Theo nguyên tắc chung, độ lún sau xây dựng của đập vật liệu địa phương không được vượt quá 1% chiều cao của đập. + Khó có thể dự đoán giá trị dịch chuyển ngang sau khi tích nước có thể chấp nhận được đối với bất kỳ kích thước đập vật liệu địa phương nào. + Cân nhắc quan trọng đối với đập vật liệu địa phương là độ lún hoặc dịch chuyển ngang của đỉnh đập phải giảm dần theo thời gian trong điều kiện tải trọng không đổi. Sự gia tăng đột ngột hoặc thậm chí từ từ của tốc độ lún hoặc dịch chuyển ngang phải tìm nguyên nhân để đánh giá thêm. + Cao độ mực nước dự tính rõ ràng sẽ thay đổi theo kích thước và loại đập, chiều sâu của hồ chứa, v.v., và không thể định lượng phạm vi chấp nhận được ngoại trừ trên cơ sở kinh nghiệm riêng. |
| |
Dịch chuyển/Nhiệt độ | + Hiện tượng co giãn của bê tông tỷ lệ thuận với sự thay đổi của nhiệt độ. + Ở những vị trí có sự chênh lệch lớn giữa nhiệt độ giữa mùa hè và mùa đông, các khối bê tông trong đập sẽ dịch chuyển, khiến các mối nối và vết nứt mở ra vào mùa đông và đóng lại vào mùa hè. + Vào mùa hè, khi nhiệt độ của mặt hạ lưu đập tăng lên, bê tông gần mặt hạ lưu sẽ nở ra. Trong khi đó, do có nước hồ chứa nên nhiệt độ ổn định hơn ở mặt thượng lưu, nên có rất ít hoặc không có sự giãn nở của bê tông gần mặt thượng lưu. Sự giãn nở chênh lệch này của bê tông có thể làm cho đỉnh đập di chuyển hoặc xoay nhẹ về phía thượng lưu. |
| |
Thấm/Nhiệt độ | + Sự thấm hoặc rò rỉ qua các vết nứt và khe nối của đập bê tông tỷ lệ nghịch với nhiệt độ của không khí / bê tông / nước. |
| |
Thấm/ Áp lực nước/ Độ đục /Hiện tượng hòa tan đá | + Dòng chảy rối hoặc sự tăng mức độ đục có thể cho thấy sự thay đổi của dòng thấm và áp lực nước. + Bất kỳ sự thay đổi đột ngột nào về áp lực nước đều phải được kiểm tra giá trị lưu lượng thấm. + Khi hiện tượng thấm gia tăng đều đặn, không tăng độ đục, thì cần kiểm tra sự hiện diện của chất rắn hòa tan trong nước thấm. |
| |
Tác động của động đất/Dòng thấm /Áp lực nước | + Chuyển động của mặt đất do động đất có thể làm cho đập di chuyển hoặc biến dạng, dẫn đến hư hỏng và/hoặc sự mất ổn định và hỏng hóc kết cấu. Việc di chuyển như vậy cũng có thể làm hỏng các kết cấu kiểm soát thấm. + Tốc độ thấm tăng, độ đục tăng, hoặc áp lực nước tăng cao đều có thể chỉ ra rằng kết cấu đã bị hư hại. + Rò rỉ / thấm rất nhạy cảm với động đất và là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự ổn định của thân đập và nền đập. + Các nghiên cứu thực tế cho thấy rò rỉ/thấm và áp lực nước kẽ rỗng thường thay đổi do nền đất rung chuyển. Thông thường chúng tăng lên sau một trận động đất. + Trong hầu hết các trường hợp, hiện tượng rò rỉ/thấm tăng chỉ là tạm thời và sẽ giảm hoặc ổn định theo thời gian, nó có thể kéo dài từ vài ngày đến vài năm cho đến khi đạt được tình trạng ổn định. |
| |
Các hoạt động xây dựng khác | + Trong quá trình hoạt động xây dựng hoặc cải tạo đập, giá trị áp lực nước có sự thay đổi đột ngột của nước thấm, và/hoặc xuất hiện các dịch chuyển bất ngờ, cho thấy khả năng có thể xảy ra các tình trạng không an toàn. |
| |
Hình 13‑1 Biểu đồ quan hệ áp lực thấm & mực nước hồ
Hình 13‑2 Cao độ áp lực nước ngoại suy cho đập bê tông
Hình 13‑3 Độ trễ thời gian giữa mực nước hồ và tốc độ dòng chảy ở đập bê tông
Hình 13‑5 Quan hệ giữa biến dạng và thời gian trong đập bê tông
Hình 13‑6 Sự thay đổi nhiệt trong đập bê tông
| |||||||||||||||
| |||||||||||||||
| |||||||||||||||
| Hình 13‑7 Áp lực nước ngoại suy cho đập vật liệu địa phương | ||||||||||||||
Hình 13‑8 Sự thay đổi áp lực nước trong đập vật liệu địa phương có lớp sét đáy đập
| |||||||||||||||
Hình 13‑13 Biểu đồ độ lún thân đập | |||||||||||||||
Hình 13‑12 Dịch chuyển ngang của đập vật liệu địa phương | |||||||||||||||
Hình 13‑13 Biểu đồ độ lún đập | |||||||||||||||
Hình 13‑14 Biểu đồ dịch chuyển ngang của đập | |||||||||||||||
Hình 13‑15 Biểu đồ quan hệ lượng thấm và mực nước hồ | |||||||||||||||
Hình 13‑16 Biểu đồ lượng thấm và mực nước hồ theo thời gian và xu hướng phát triển | |||||||||||||||
Hình 13‑17 Biểu đồ tốc độ dòng thấm khi mực nước hồ không đổi theo thời gian | |||||||||||||||
Hình 13‑18 Biểu đồ thể tích nước thấm và mực nước hồ
| |||||||||||||||
Nguyễn Quốc Dũng biên soạn
[Còn tiếp- Bài 14]