Mưa sau bão ngày càng dữ dội, công tác dự báo và phòng chống nên thế nào trong bối cảnh mới?

16/10/2025 15:50

12

Sau đây là câu hỏi và trả lời của GS.TS Nguyễn Quốc Dũng cho Báo VN Express và đường Link của Postcat của cuộc phỏng vấn.

Phóng viên Phương Nghi - Ban Podcast Báo điện tử VnExpress

SDT: 0903 918 616

Email: phuongnghi@vnexpress.net 

1) Lũ lớn đang nhấn chìm các tỉnh thành phía Bắc sau khi bão Matmo đổ bộ. Vì sao sau khi mưa dứt, nước vẫn đổ về rất lớn, cho đến thời điểm này vẫn còn nhiều xã đang ngập trong nước lũ, thưa anh? 

Năm nay khu vực Miền Bắc và Bắc Miền Trung  mưa bão liên tục, riêng trong tháng 9 và đầu tháng 10 đã có 8 đợt mưa bão, đầu tháng 10 ảnh hưởng mưa do Bão Bualoi và bão Matmo. 

Lũ năm nay lớn là do mưa kéo dài và cuối mùa, khi đất ngậm nước đến mức bão hòa nên mưa xuống chỉ còn cách chảy trên mặt và tạo dòng chảy lũ. Mặt khác, năm nay lượng mưa nhiều nơi lên đến 500mm, cao hơn lượng mưa trong Bão Yagi tháng 9/2024, nên lũ ở nhiều nơi lớn hơn năm 2024.

Còn tại sao sau khi mưa dứt lũ vẫn đổ về rất lớn? Điều này xảy ra là do 2 nguyên nhân:

a) Một là: chủ yếu ở Tiểu Lưu vực sông Cầu- sông Thương (bao gồm các tỉnh: Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc và TP Hà Nội). Lưu vực này có đặc điểm: Nơi hợp lưu của sông Cầu- sông Thương – sông Lục Nam- sông Đuống gần Phả Lại để tạo ra sông Thái Bình, do chịu ảnh hưởng của đợt thủy triều cao (rằm tháng 8) từ biển tiến vào sông Thái Bình nên độ dốc thủy lực nhỏ, thoát lũ rất chậm. Mặt khác, lũ từ thượng nguồn về đến đồng bằng cũng mất một thời gian, ví dụ từ thượng nguồn s.Cầu về đến Thái Nguyên cũng mất 36-48 giờ. Vì vậy, mưa dứt 2-3 ngày rồi mà vùng đồng bằng Bắc Ninh, Sóc Sơn mực nước vẫn cao.

b) Hai là: Cũng như các lưu vực khác, các hồ chứa thượng nguồn giữ lũ lại, và sau lũ xả nước xuống dần dần. Tuy nhiên, với LV Cầu-Thương thì không có nhiều hồ chứa lớn. 

 

Tiểu vùng Lưu vực sông Cầu -Thương:

Tỉnh Lạng Sơn (14/20 xã huyện Chi Lăng, Hữu Lũng, 6/12 xã huyện Đình Lập, 14/18 xã huyện Bắc Sơn, 4/21 xã huyện Lộc Bình), tỉnh Bắc Kạn (2/20 xã huyện Chợ Đồn, Bạch Thông, 12/14 xã huyện Chợ Mới, thành phố Bắc Kạn), tỉnh Bắc Giang, tỉnh Thái Nguyên, tỉnh Bắc Ninh (Yên Phong, Tiên Du, Quế Võ, thành phố Từ Sơn và thành phố Bắc Ninh), tỉnh Vĩnh Phúc (Huyện Vĩnh Tường, Yên Lạc, Mê Linh, Tam Đảo, Tam Dương, Bình Xuyên, thành phố Vĩnh Yên, thị xã Phúc Yên), Thành phố Hà Nội (Mê Linh, Sóc Sơn, Đông Anh, 8/22 xã huyện Gia Lâm)

2) Điều này có gì bất thường so với trước hay không, thưa anh? Nếu có, anh hãy kể tên và lý giải vì sao. 

Có 2 bất thường của lũ năm nay:

(1) Như đã nói ở trên là mưa lớn, xảy ra trên diện rộng, kéo dài nhiều ngày, xảy ra cuối mùa lũ.

(2) Xảy ra mưa lớn (trên 500mm) ở Tiểu lưu vực sông Cầu- sông Thương là lưu vực tiêu thoát chậm (sông có độ dốc nhỏ, uốn lượn nhiều, vẫn còn một số vật cản lũ như đập Thác Huống), thượng nguồn không có hồ chứa lớn để kiểm soát lũ (chỉ có hồ Núi Cốc dung tích 170 triệu m3). Lũ bão Yaghi năm 2024 chủ yếu xảy ra trên lưu vực Lô-Gâm, nơi có những hồ chứa lớn như Tuyên Quang (trên 2,2 tỷ m3), Thác Bà (gần 4 tỷ m3 nước) nên việc kiểm soát lũ thuận lợi hơn. 

3) Từ những dữ liệu hiện có, anh nhận định thế nào về xu hướng của lượng mưa sau bão trong thời gian gần đây? Điều này ảnh hưởng, gây sức ép thế nào đến hồ, đập chứa nước? Anh có thể chia sẻ ví dụ kèm số liệu cụ thể. 

Tôi không phải là chuyên gia Khí tượng, nhưng theo thông báo của cơ quan KTTV thì từ giờ đến hết năm còn 3 - 4 cơn bão có thể đổ bộ vào Miền Trung. Tôi cho rằng Bão Matmoi có thể là cơn bão lớn cuối cùng đổ bộ vào phía Bắc trong năm nay. 

Với các hồ chứa vùng phía Bắc, tại thời điểm này là cuối mùa mưa lũ, theo Quy trình vận hành hồ chứa trên sông Hồng (ban hành theo QĐ số 922/2025/QĐ-TTg) là chu kỳ tích nước. Nhưng thực tế vừa qua nhiều hồ lớn đã phải mở cửa xả đáy như hồ Hòa Bình, hồ Tuyên Quang. Nhưng khi lũ trên sông Hồng lớn thì lại nhận lệnh đóng lại để giảm lũ cho hạ du. Có nghĩa rằng, việc điều hành hồ chứa năm nay đã rất linh hoạt, vừa bảo đảm an toàn đập- vừa bảo đảm an toàn hạ du–nhưng vẫn phải đảm bảo đủ nước cho mùa khô sắp đến. Đây là thách thức lớn, gây sức ép trong vận hành hồ chứa, liên hồ chứa. 

4) Từ thực tế này, theo anh, hiện đặt ra những vấn đề gì trong công tác dự báo lượng mưa, mực nước và phòng chống thiên tai? 

Trong dự báo bão: anh đánh giá việc dự báo lượng mưa, mực nước hiện đang có vấn đề gì, có đang theo kịp với diễn biến của thời tiết cực đoan hay không?

 Trong công tác phòng chống (xả lũ, điều tiết nước), hiện có đang gặp phải những thách thức thế nào trong bối cảnh thời tiết này?

Dự báo mưa, bão luôn là thách thức không chỉ ở Việt Nam. Mặc dù năng lực của cơ quan khí tượng Việt Nam được đánh giá thuộc loại top đầu trong khu vực. Nhưng vì dự báo trên phạm vi lớn, bị chiều yếu tố chi phối chưa thể chính xác được. 

Khi có được dự báo mưa chính xác về thời gian và địa điểm thì nhiệm vụ tiếp theo là của các chuyên gia thủy văn-thủy lực. Để dự báo, cảnh báo chính xác được ngập lụt (mực nước, lưu lượng, thời gian đỉnh lũ ở bất kỳ khu vực nào ở hạ lưu) cần phải có Bản đồ ngập lụt được xây dựng bài bản, kết hợp với lắp đặt đầy đủ (theo quy định) các trạm quan trắc ở thượng lưu và hạ lưu. Tuy nhiên, theo thông tin tôi được biết, lưu vực sông Cầu-Thương chưa có bản đồ ngập lụt riêng cho lưu vực, mới chỉ có Bản đồ ngập lụt cho cả hệ thống sông Hồng- sông Thái Bình chung cho nhiều lưu vực: sông Đà, sông Thao, sông Lô, sông Gâm, … Bản đồ này bao phủ một diện tích quá lớn với đặc điểm lưu vực quá khác nhau về không gian, thời gian nên khó chính xác được.

Theo báo chí, một số lãnh đạo ở các địa phương phát biểu là đợt lũ vừa qua các tỉnh trong Lưu vực sông Cầu- sông Thương họ không có được dự báo, cảnh báo tốt, còn đôi chút chủ quan khi lấy mực nước trong cơn bão Yagi làm mức chuẩn bị ứng phó. Có thể nói là họ không ngờ lũ năm nay lớn như vậy.

5) Từ các vấn đề đặt ra, anh có đề xuất phương án giải quyết thế nào cho các vấn đề này để công tác dự báo lượng mưa, mực nước và phòng chống thiên tai được tốt hơn? 

Trước thực trạng thiên tai có nhiều diễn biến bất thường và ngày các khốc liệt, Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cũng như các địa phương vùng ảnh hưởng đã nhận thức được và có những chương trình hành động thiết thực để tăng cường công tác dự báo, cảnh báo, kế hoạch ứng phó thiên tai trong thời gian tới. Hy vọng những năm sau không lặp lại những thảm họa như vừa qua.

Trên quan điểm cá nhân, với vùng Miền núi phía Bắc, trên cơ sở kinh nghiệm quốc tế tôi cho rằng cần làm một số việc sau:

- Nâng cao năng lực dự báo mưa, lũ: Ngoài dự báo của cơ quan Khí tượng thủy văn quốc gia và của khu vực thì cần có dự báo cho riêng từng Tiểu lưu vực (Khu vực Miền núi phía Bắc được chia làm 3 Tiểu lưu vực: Đà – Thao; Lô – Gâm; Cầu - Thương). Mỗi Tiểu lực vực cần bố trỉ đủ số lượng các trạm quan trắc theo quy định, kết nối thành hệ thống chung toàn vùng.

- Mỗi Tiểu lưu vực cần xây dựng bộ công cụ hỗ trợ điều hành theo thời gian thực, tích hợp dự báo Khí tượng thủy văn (dự báo mưa), Tính toán dòng chảy lũ (tính toán mực nước và lưu lượng) theo thời gian thực, các Kịch bản vận hành ứng phó, và giảm thiểu lũ và kế hoạch sơ tán dân cư vùng vị tác động. 

- Kinh nghiệm quốc tế là Kế hoạch phòng chống thiên tai nên làm cho từng Lưu vực sông, tích hợp Quy hoạch vận hành hồ chứa với Quy hoạch sử dụng đất, Quy hoạch phát triển hạ tầng (các khu đô thị, khu công nghiệp, khu phân lũ, chậm lũ). Đặc biệt lưu ý quy hoạch các khu phân lũ, chậm lũ cần được quan tâm thích đáng. Ví dụ như việc nâng cao đê để bảo vệ TP Thái nguyên cần ưu tiên bảo vệ khu vực đô thị cũ trên một cấp so với bờ hữu vốn là vùng đất nông nghiệp thấp trũng, tránh tình trạng cùng một lúc phải căng mình chống đỡ ở nhiều nơi. 

- Về cách tiếp cận trong xây dựng các Bản đồ ngập lụt, hiện nay chúng ta mới tiếp cận dựa trên đánh giá rủi ro một cách định tính. Ví dụ: Phân cấp đê đang là cho từng con sông. Ví dụ như đê sông Hồng phải là đê cấp đặc biệt (cho cả 2 bờ sông) từ Việt Trì cho đến Cửa Ba Lạt, dẫn đến yêu cầu kết cấu phải chắc chắn ở cấp đặc biệt. Nên tiếp cận dựa trên đánh giá rủi ro, quy hoạch các khu phân lũ, chậm lũ và dựa vào đó để lập kế hoạch ứng phó phù hợp. Việc tuyên truyền để cho người dân trong vùng quy hoạch phân lũ, chậm lũ hiểu và chia sẻ cũng cần được tăng cường. 

[Nghe bản ghi âm cuộc phỏng vấn tại đây]